Một
Tấm Lòng Vàng
Trần Bình 
Ngày 15 tháng
6 năm 2006 trong một cuộc họp báo tại thành phố Redmond, bang Washington sau giờ
thị trường chứng khoán ở New York đã đóng cửa, ông Bill Gates giám đốc công ti
Microsoft cho biết ông sẽ rời bỏ chức vụ giám đốc trong vòng hai năm để dùng thì
giờ điều hành cơ sở từ thiện Bill &
Melinda Gates Foundation (gọi tắt là cơ sở Melinda). Melinda
Gates là vợ ông. Ông ký tặng cơ sở Melinda 31 tỉ mỹ kim
(trong số tài sản ước lượng 81 tỉ của ông) để giúp cải tiến việc giáo dục và săn
sóc sức khỏe cho những người kém may mắn, nhất là tại Phi châu. 
Ngày 
Việc các nhà kinh doanh và kỹ nghệ gia thành công bỏ tiền làm việc
từ thiện không phải là hiếm trên thế giới. Trong thế kỷ thứ 19 nhà kỹ nghệ dầu hỏa Mỹ John
Rockefeller (1839-1937) và Andrew Carnegie (1935-1919) nhà kỹ nghệ thép đã bỏ
ra theo thứ tự 7.6 tỉ và 4.1 tỉ mỹ kim (theo thời giá năm
2006) để giúp phát triển giáo dục, y tế, canh nông và thành lập các thư viện. Số tiền của ông Rockefeller đã giúp các bác sĩ tìm ra thuốc chủng
ngừa bệnh sốt rét vàng da (yellow fever) và tạo ra cuộc “cách mạng xanh” (green
revolution) trong nông nghiệp giúp hơn một tỉ người thoát khỏi nạn đói.
Theo thống kê, các nhà tỉ phú Hoa Kỳ dẫn đầu trong việc bỏ tiền
lập các cơ sơ từ thiện. Tính đến năm 2006 sau Hoa Kỳ (Bill, Melinda Gates & Buffett,
60 tỉ) là Thụy Điển (công ti bán đồ trang trí nhà cửa IKEA, 38 tỉ), Anh quốc (công
ti Welcome Trust, 22 tỉ) và Ý (cơ sở Cariplo & Monte del Paschi di Siena,
15 tỉ).
Nhưng việc bỏ tiền của ông Bill Gates có nhiều ý nghĩa nhất. Bill Gates năm nay 50 tuổi,
còn quá trẻ, số tiền ông bỏ ra rất lớn và bỏ ra trong một thời điểm các nhà tài
phiệt tại Hoa Kỳ đang mang tai tiếng như công ti năng lượng Enron của Kenneth
Lay lường gạt khách hàng, khai phá sản cuối năm 2001 và vừa bị một tòa án liên
bang tại Houston xử có tội mấy tháng trước. Ông Gates đứng ra
tự điều hành cơ sở từ thiện của mình để tránh lãng phí và đầu tư tiền bạc vào một
vùng bất hạnh và bị thế giới quên lãng nhất trên thế giới. Hành động của
ông kéo theo nghĩa cử của ông Warren Buffett và người
ta hy vọng nó sẽ tạo ra một phong trào bỏ tiền làm điều thiện trên thế giới.
Thông thường
hành động từ thiện lớn như John Rockefeller và Andrew Carnegie do lòng nhân, hoặc
do quan niệm rằng hệ thống tư bản giúp họ làm giàu đã để lại sau lưng một số người
kém may mắn hơn, hoặc phát xuất từ một nhân sinh quan như ông Buffett rằng để lại
một gia kếch xù lại cho con cái không tạo thành một “vương triều” có hậu mà chỉ
có hại cho dòng họ (dòng họ Kennedy ở Massachusetts là một thí dụ).
Nhưng hành động của Bill Gates có thể có nguyên nhân sâu xa hơn. Thời sinh tiền bà Mary
Gates mẹ ông, một nhà giáo, thường khuyên con nếu sau này ra đời thành công và
giàu có thì nên nhớ đó là tiền của xã hội mình có được nhờ may mắn và khôn
ngoan hơn nên đừng quên “trả lại” cho xã hội. Nhưng ít ai nghĩ ông Bill Gates bỏ
ra 31 tỉ mỹ kim và có thể trong tương lai cả 50 tỉ còn lại là đơn thuần do lời
khuyên của mẹ.
Bill Gates là một người khác thường. Phong thái
bình dị là nét đặc thù của ông. Năm 1973 mới mười tám tuổi ông vào đại học
Harvard, một trường nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, nhưng ông không chấp nhận con đường
thành công kiểu cách qua mảnh bằng tiến sĩ suốt đời áo mão cân đai. Năm 1975 ông bỏ ngang cùng với Paul Allen, một người bạn
trẻ về bang 
Nhưng thế giới ông sống cũng biến chuyển một cách lạ thường. Con người càng ngự trị thiên
nhiên, vật chất càng dồi dào thì “phẩm chất” của sự sống càng suy giảm. Điều này
ít người để ý nhưng có lẽ đã là niềm ưu tư trăn trở của
tâm hồn hướng thiện của Bill Gates từ những ngày thơ ấu bên cạnh bà mẹ nhân từ
và trong sân trường đại học.
 Nhớ lại cách đây 20 hay 30 chục năm những bản
tin truyền hình đến với mỗi gia đình mỗi buổi chiều khá cân đối, bên cạnh tin dữ
có tin vui mang lại tươi mát cho không khí gia đình. Nhưng trong những năm gần đây
tin tức trên truyền hình đa số là tin không vui, mở đài là thấy cảnh cướp của
giết người, họa hằn lắm mới có một vài tin vui làm ấm lòng người nghe. Tin vui ít
đến nổi đài truyền hình NBC, một trong ba hệ thống truyền hình lớn của Hoa Kỳ có
sáng kiến thêm mục “make a difference”
để có cơ hội mỗi ngày mang một tin lành đến khán thính gỉả. 
Nhưng điều đáng sợ là chúng ta không ghi nhận được rằng thế giới
chúng ta đang sống càng ngày càng bệnh hoạn. Năm 1963
hình ảnh tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức tại một góc đường ở thành phố
Sàigòn đã gây nên sự xúc động trên toàn thế giới. Nhưng từ năm 2003 đến
nay những cuộc nổ bom tự sát hằng ngày tại 
Trong chiến
tranh Việt nam khi vụ tàn sát Mỹ Lai (xẩy ra năm 1968) tại một ngôi làng nhỏ tại
tỉnh Quảng Ngãi được phanh phui (năm 1969) dư luận nước Mỹ xúc động đến độ người
ta cho cuộc chiến tranh Việt Nam đánh mất lương tri của những người lính trẻ vốn
hiền lành nhân hậu, nhưng gần đây những cuộc giết thường dân vô tội như tại
Hadithah bên bờ sông Euphrates tháng 11 năm 2005 bởi một số quân nhân Hoa Kỳ cũng
như vụ mấy người lính Mỹ hiếp dâm một thiếu nữ người Iraq rồi giết nguyên cả một
gia đình gồm đương sự, bố mẹ và cô em gái để phi tang như diễn ra trong tháng
3/2006 tại một ngôi làng nhỏ nằm ở phía nam thành phố Baghdad chỉ là một cái
tin thoáng qua rồi rơi vào quên lãng. Nhiều người còn nhớ chuyện chuồng cọp
giam tù chính trị tại Côn Sơn mà các dân biểu phản chiến Mỹ thích đến Việt Nam khoảng
đầu thập niên 1970 để phanh phui xem như một vết dơ của chế độ ông Nguyễn Văn
Thiệu, nhưng tại nhà tù Abu Ghraib mà mức độ vi phạm nhân quyền của người tù trong
những tháng cuối năm 2003 gấp trăm lần những gì đã diễn ra ở nhà tù Côn Sơn cũng
nhanh chóng rơi vào quên lãng. Tấm hình ông Eddie Adams chụp chuẩn tướng Nguyễn
Ngọc Loan bắn chết một du kích quân giữa thành phố Sài Gòn ngày 1/2/1968 đã đóng
góp phần nào vào sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và làm cho đời sống tị nạn của
ông Loan ở Hoa Kỳ điêu đứng trong khi những vụ du kích Hồi giáo dùng dao cắt cổ
thường dân và quân nhân Mỹ rồi cho phổ biến hình trên truyền hình cũng không thấy
thế giới lên án gắt gao như họ từng lên án ông Loan.
Đó là chuyện ngoài chiến trường. Tại các
thành phố vốn êm đềm tĩnh lặng của Hoa Kỳ cũng có nhiều chuyện để quan tâm.
Ngày 20/4/1999 khi hai học sinh trường Trung học Columbine ở Colorado mang súng
vào trường bắn chết 12 học sinh và một giáo viên cả nước Mỹ xôn xao. Truyền thông và quốc hội đặt vấn đề “phải làm một cái gì” để cho một
việc tương tự không thể diễn ra trong tương lai. Nhưng những vụ bắn giết
tương tự vẫn diễn ra và từ năm 1999 đến năm 2005 tin tức ghi nhận những vụ học
sinh nổ súng tại các trường Trung học đã xẩy ra trên 17 tiểu bang Hoa Kỳ. Nhưng
tin tức không làm cho dư luận xúc động nữa. Chỉ là tin thoáng
qua và cuộc sống vẫn thế trôi qua.
Ở tầm vóc thế
giới, sau thế chiến thứ hai, khi vụ Đức Quốc xã giết 6 triệu người Do Thái được
phanh phui, thế giới cho rằng đó là điều không thể quan niệm được và các lãnh tụ
trên thế giới thề thốt rằng những việc như vậy sẽ không thể tái diễn. Nhưng năm 1975 Polpot giết một triệu đồng bào của ông, và chính quyền
Polpot vẫn giữ được ghế tại Liên hiệp quốc trong một thời gian. Năm 1994 người Hutu giết một triệu người Tutsi tại 
Nhắc đến những
sự việc trên tôi không có ý kết án một chính phủ hay một
cá nhân nào. Người bị giết hay người tạo ra tội ác đều là “nạn nhân” của hoàn cảnh,
rơi vào một nơi không đúng chỗ, vào một thời điểm không đúng lúc, và ở trong một
trạng thái tâm lý họ không có điều kiện làm chủ. Tôi chỉ muốn ghi nhận một điều:
thế giới chúng ta đang sống đang mất dần phẩm chất và những lãnh tụ chính trị,
các nhà đạo đức và các nhà lãnh đạo tinh thần hình như cũng bất lực. 
Bill Gates
phải là người từng trăn trở trước thế giới ông đang sống
và cảm nhận được sự bất lực của mình, mặc dù ông có khả năng xây dựng một đế quốc
tài chánh của riêng ông. Những chủng tử tốt nơi ông giúp ông tiếp cận được với ảo
ảnh của cuộc đời và quả 
tim nhân hậu của ông làm ông dễ thổn thức trước nỗi khổ của tha
nhân hơn là đa số chúng ta. Những bậc tiên tri như Chúa Jesus Christ hay Phật
Thích Ca từng nói đến ngày tận thế và thời mạt pháp, thì có thể ông Bill Gates
cảm nhận được rằng nếu tâm con người không thay đổi thì tận thế là đây và mạt
pháp cũng là đây.
Sở thuế Hoa
Kỳ cho biết rằng từ tháng 7 năm 2004 đến hết tháng 6 năm 2005 công ti Microsoft
của Bill Gates lời 39.79 tỉ mỹ kim. Ai có thể từ bỏ lòng tham
để trải tấm lòng vàng đi cứu nhân độ thế ngoài thiên thần và các vị bồ tát?
Phải chăng
Bill Gates là hiện thân bằng da bằng thịt của một thiên thần hay một vị bồ tát
giáng trần để cảnh giác thế giới đang chơi vơi trên bờ vực thẳm./.
Trần Bình 
   
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |