Chung quanh vấn đề Việt Nam
đăng ký “Thềm Lục Địa Ngoại Biên”
(Extended continental shelf)
Trần Bình Nam
Trước thế kỷ 20 ranh giới biển của các quốc gia có bờ biển (coastal states)
gọi là lãnh hải chỉ trong khoảng 3
hải lý (giới hạn bởi tầm súng do sáng kiến của luật sư Cornelius van
Bynkershoek người Hòa Lan). Vào đầu thế kỷ 20 nhiều quốc gia muốn nới rộng lãnh
hải để rộng tay khai thác khoáng sản dưới đáy biển hoặc bảo vệ quyền đánh cá,
và Hội Quốc Liên (League of Nations), tiền thân của Liên hiệp quốc hiện nay đã
triệu tập một cuộc họp tại The Hague (Hòa Lan) để thảo luận. Nhưng không tìm ra
giải pháp.
Năm 1945 tổng thống Truman của Hoa Kỳ đơn phương tuyên bố quyền bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa
của mình bất chấp khoảng cách từ bờ ra biển. Tổng thống Truman hiểu thềm lục địa theo nghĩa thông thường là
phần đất nằm dưới đáy biển thoai thoải kéo dài từ khối đất lục địa. Trong
khoảng thời gian từ 1945 đến 1950 các nước Nam Mỹ gồm Argentina, Chili, Peru và
Ecuador theo chân Hoa Kỳ tuyên bố lãnh hải của họ là 200 hải lý. Sau đó nhiều
nước khác nới rộng ra 12 hải lý (1). Đến năm 1967 trên thế giới có 8 nước tuyên
bố lãnh hải 200 hải lý, 66 nước tuyên bố 12 hải lý và 25 nước vẫn còn giữ 3 hải
lý.
Năm 1968 Liên hiệp quốc triệu tập một hội nghị về biển và sau 14 năm làm
việc hoàn tất một quy ước về biển gọi là Quy
ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the
Sea – UNCLOS) gồm 320 điều khoản. 157
quốc gia tham dự cùng ký tại Montego Bay, Jamaica ngày 10/12/1982. Điều 308 của Luật Biển quy
định khi có đủ 60 quốc gia phê chuẩn Quy ước sẽ có hiệu lực quốc tế sau đó một
năm. Tham chiếu điều khoản này Luật Biển có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Việt Nam là một trong
157 nước ký Quy ước về Luật Biển ngày 10/12/1982 và quốc hội Việt Nam phê chuẩn
ngày 23/6/1994.
Ngày 13/5/1999 Liên
hiệp quốc quyết định rằng các quốc gia đã phê chuẩn Quy ước có thời hạn 10 năm
kể từ ngày 13/5/1999 để đăng ký chủ quyền Thềm
Lục Địa Ngoại Biên (Extended continenetal shelf) của nước mình cho Ủy Ban duyệt xét giới hạn của thềm lục địa
(Commission on the Limits of the Continental Shelf) (2).
Thềm lục địa (Continental shelf) theo định nghĩa của điều
76, khoản 1 của Luật Biển là những gì trên hoặc dưới đáy biển kéo dài một cách
tự nhiên từ đất liền ra biển. Nếu thềm kéo dài này chưa đến 200 hải lý (3) kể
từ đường chuẩn (baselines) (4) thì giới hạn của Thềm lục địa là 200 hải lý. Nếu
thềm kéo dài này vượt quá giới hạn 200 hải lý thì Thềm lục địa ngừng ở thềm đó
(qua một cách thức được xác định bởi công thức Gardiner dựa vào độ dày của lớp chất cứng kết tụ dưới đáy biển
(sediment) hay theo công thức Hadberg dựa vào độ nghiêng nơi chân thềm cọng
thêm 60 hải lý) hoặc ngừng ở khoảng cách 100 hải lý ngoài đường có cùng độ sâu
2.500 mét (quốc gia liên hệ chọn cách tính có lợi nhất cho mình, nhưng trong cả
hai trường hợp không được vượt quá giới hạn 350 hải lý kể từ đường chuẩn). Phần
thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý gọi là Thềm Lục Địa Ngoại Biên (Extended Continental Shelf)
Ủy Ban duyệt xét giới hạn của thềm lục địa chỉ xét giá trị đăng ký Thềm
Lục Địa Ngoại Biên và sẽ giải quyết trong trường hợp có tranh chấp giữa
nước này với nước khác. Sự đăng ký Thềm
lục địa ngoại biên không liên quan gì đến chủ quyền các chòm hải đảo trên
biển dù có tranh chấp hay không (thí dụ như các chòm đảo Hoàng Sa và Trường
Sa).
Theo quy định của Quy
ước, hôm 6/5/2009 Việt Nam đã đệ nạp Ủy
Ban duyệt xét giới hạn của thềm lục địa hai bản đăng ký Thềm lục địa ngoại biên trên biển Đông,
một bản liên quan đến Thềm lục địa ngoại
biên phía Bắc (viết tắt là VNM-N) và một bản liên quan đến Thềm lục địa ngoại biên phía Nam nộp
chung với Mã Lai Á (viết tắt là MYS-VNM). Việt Nam và Mã Lai Á đăng ký chung vì
ý thức rằng Thềm lục địa ngoại biên
này của hai nước chập vào nhau, và hiểu rằng sẽ cùng thương thảo giải quyết
sau.
Trước Việt Nam nhiều
nước đã đăng ký chủ quyền Thềm lục địa
ngoại biên. Liên bang Nga đăng ký năm 2001, sau đó Pháp, Anh, Ireland và
Tây Ban Nha (theo The Economist May
16th – 22nd, 2009 – “Suddenly, a widwer
world below the waterline”). Hoa Kỳ đã ký Luật Biển nhưng Thượng nghị viện
chưa phê chuẩn cho rằng Luật Biển để cho các nước nhỏ quá nhiều quyền có thể
ảnh hưởng đến quyền lợi của Hoa Kỳ.
Sự đăng ký (hay không
đăng ký) Thềm Lục Địa Ngoại Biên của
Việt Nam được nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước cũng như dư luận quốc tế
đặc biệt quan tâm vì biển Đông là vùng biển của Việt Nam nhưng Trung quốc đang
lợi dụng thế nước lớn để giành giựt.
Bước vào tháng 3/2009
chưa thấy chính quyền Việt Nam động tỉnh gì, dư luận e rằng chính phủ Việt Nam
sẽ không đệ nạp sợ đụng chạm với Trung quốc nên ngày 26/3/2009 (48 ngày trước
hạn kỳ đăng ký) diễn đàn điện tử Đối Thoại (www.doi-thoai.com) đã cho lên mạng một đồng hồ
đếm giờ ngược hằng giây đồng hồ để
nhắc nhỡ chính phủ Việt Nam, và ông Nguyễn Bá Cẩn, nguyên chủ tịch quốc hội
Việt Nam Cộng Hòa và là vị thủ tướng cuối cùng của miền nam Việt Nam đã tập hợp
một số chuyên viên chuẩn bị tài liệu để đệ nạp Liên hiệp quốc trong trường hợp
chính quyền Việt Nam không làm nhiệm vụ của mình (5).
Trong phần mở đầu của
bản VNM-N (6) Việt Nam xác định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa (mặc dù Trung quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam
Cộng Hòa đầu năm 1974), sau đó đi vào chi tiết của Thềm lục địa ngoại biên Việt Nam muốn đăng ký.
Thềm lục địa ngoại biên phía Bắc Việt Nam đăng ký là một tam
giác chúc ngược gồm một cạnh ở phía Bắc, một cạnh ở phía Đông và một cạnh ở phía Tây. Đỉnh phía Nam của tam giác chúc
ngược có tọa độ (10o798 N, 112o626E) nằm trên đường cách
xa đường chuẩn 200 hải lý. Đỉnh phía Đông có tọa độ (15o067 N, 115o148
E), và đỉnh phía Tây nằm trên đường cách xa đường chuẩn 200 hải lý tọa độ ước
chừng (15o500 N, 112o600 E). Cạnh phía Bắc là đường trung
tuyến giữa hai đường chuẩn của bờ biển Việt Nam và bờ biển Trung quốc, cạnh
phía Tây là đường giới hạn 200 hải lý tính từ đường chuẩn của bờ biển Việt Nam,
và cạnh phía Đông là đường nối 45 điểm (đánh số từ 1 đến 45 từ Bắc xuống Nam) giới hạn ranh giới ngoài của Thềm lục địa ngoại biên của Việt Nam.
Điểm số 1 là đỉnh phía Đông, điểm số 45 là đỉnh phía Nam, các điểm từ 2 đến 43
được xác định theo công thức Hedberg, điểm 44 được xác định theo công thức
Gardiner (xem bản đồ đính kèm tài liệu chú thích 6).
Việt Nam tường trình
với Ủy Ban duyệt xét giới hạn của thềm
lục địa rằng bản đăng ký của Việt Nam là kết quả làm việc trong hai năm
2007 và 2008 của một ủy ban liên bộ gồm bộ Ngoại giao, bộ Tài nguyên Thiên nhiên
& Môi trường, bộ Khoa học & Kỹ thuật cùng với nhiều cơ sở chuyên môn
như Viện Vật lý địa cầu, Viện Địa Lý, Sở lập bản đồ, Hải quân và công ty dầu
khí PetroVietnam. Cùng với bản đăng ký là các tài liệu kỹ thuật chứng minh để Ủy Ban duyệt xét giới hạn của thềm lục địa kiểm
chứng và phê duyệt .
Việt Nam ghi trong bản
đăng ký rằng Thềm lục địa ngoại biên
được đăng ký có thể bị các nước khác phản đối (ý nói Trung quốc nhưng không ghi
ra) nhưng Việt Nam nhấn mạnh theo quan điểm khách quan của Việt Nam thì vùng
đăng ký này hoàn toàn thuộc Việt Nam theo các nguyên tắc quy định bởi Luật
Biển. Trung quốc đã không khiếu nại
Liên hiệp quốc về nội dung bản đăng ký này (7).
Bản đệ nạp MYS-VNM (8)
chung với Mã Lai Á liên quan đến Thềm lục
địa ngoại biên nằm dưới vĩ độ 9oE kẹp giữa hai đường ranh giới
200 hải lý của Việt Nam và Mã Lai Á. Thềm
lục địa ngoại biên chung này bao gồm nhiều đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa
nên chỉ một ngày sau (7/5/2009) Trung quốc phản đối và yêu cầu Liên hiệp quốc bác bỏ bản đăng ký của Việt Nam và
Mã Lai Á với lý do Thềm lục địa ngoại
biên mà Việt Nam và Mã Lai Á tuyên bố của chung là thuộc Trung quốc (9).
Đồng thời Trung quốc đính kèm một bản đồ gồm 9 vạch họp thành một chữ U bao
trọn hầu hết Biển Đông và Trung quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của mình .
Các quốc gia có giới
hạn 3 tháng để chính thức khiếu nại nội dung các bản đăng ký quyền Thềm lục địa ngoại biên. Và nguyên tắc
của Ủy Ban duyệt xét giới hạn của thềm
lục địa là khuyến khích các quốc gia liên hệ giải quyết các bất đồng với
nhau.
Tuy nhiên Thềm lục địa ngoại biên Việt Nam và Mã
Lai Á tuyên bố giành quyền qua bản đăng ký MYS-VNM khó được sự đồng ý của Trung
quốc qua thương thảo tay ba. Cho nên nội vụ có khả năng ra trước tòa án quốc tế
The Hague hay trước tòa án đặc biệt ở Hamburg để phân xử. Sự phân xử này sẽ là
cơ hội để Việt Nam trưng dẫn bằng chứng lịch sử rằng quần đảo Trường Sa là của
Việt Nam.
Từ tháng 12/2007 khi Trung
quốc cho thành lập huyện Tam Sa gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhân dân
Việt Nam trong cũng như ngoài nước đã lên tiếng yêu cầu Hà Nội đưa vấn đề ra
Liên hiệp quốc (để tối hậu đưa vấn đề ra tòa án quốc tế) nhưng Hà Nội vẫn dùng
dằng.
Việc phân định quyền Thềm Lục Địa Ngoại Biên của Luật Biển và
hồ sơ đăng ký chung của Việt Nam và Mã Lai Á bỗng trở thành một cơ hội để Việt
Nam có diễn đàn tranh đấu bảo vệ đất đai của tổ tiên để lại./.
Trần Bình Nam
May 25, 2009
Ghi chú:
(1)
Trong đó có Trung quốc qua tuyên bố ngày 4/9/1958 và công hàm
thừa nhận của thủ tướng miền Bắc Việt Nam Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 gây
nhiều tranh cãi. Xem link: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/ToanDan_NgheChang.html
(2)
Một Ủy ban quy định bởi
Annex II của Luật Biển.
(3)
200 hải lý theo Luật Biển là Vùng
đặc quyền kinh tế (Exclusice Economic Zone – EEZ) của mỗi nước.
(4)
Đường chuẩn (baselines) theo
định nghĩa của Luật Biển là đường bờ biển khi thủy triều thấp nhất. Khi bờ biển
lồi lõm hoặc quá nhiều hải đảo nhỏ gần bờ, đường chuẩn là những đường thẳng nối
liền các điểm đặc thù trên bở biển hoặc từ hải đảo này đến hải đảo khác.
(5)
Sau công việc này ông Nguyễn Bá Cẩn đột ngột qua đời rạng sáng
ngày 20/5/2009 tại San Jose, California
(6)
Link: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/vnm37_09/vnm2009n_executivesummary.pdf
(7)
Lý do dễ hiểu vì vùng đăng ký không bao gồm một hòn đảo nào
thuộc quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa
(8)
Link: http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/mys_vnm2009excutivesummary.pdf
(9)
Link: http://www.china.org.cn/international/2009-05/08/content_17744828.htm
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |