THƯỢNG ĐỈNH BUSH – PUTIN
Trần Bình Nam
 
Ngày 24 tháng 5 năm 2002 tại Mạc Tư Khoa, tổng thống Hoa Kỳ George W.
Bush và tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin ký một hiệp ước thỏa thuận cắt
giảm số đầu đạn nguyên tử của mỗi bên. Nếu được Thượng viện Hoa Kỳ, và hai viện
quốc hội Liên bang Nga phê chuẩn, trong 10 năm tới Liên bang Nga và Hoa Kỳ sẽ
giảm số đầu đạn nguyên tử hai bên đang dàn ra từ 5,000 (Liên bang Nga) và 6,000
(Hoa Kỳ)  xuống còn 1,700 và 2,200. Hiệp
ước này khác với các bản hiệp ước trước vì thời gian thương thuyết chỉ trong
vòng mấy tháng, bản văn cực ngắn vỏn vẹn 3 trang, và hai bên đã nhượng bộ nhau
những điểm trước đây họ không dễ dãi như vậy. Liên bang Nga tiếp tục chương
trình giúp Iran thiết lập nhà máy điện nguyên tử, Hoa Kỳ tiếp tục chương trình
trang bị hệ thống chống hỏa tiễn. Bản văn qui định, các hiệp ước giảm vũ khí
nguyên tử trước đây như START I (1) và START II (2) vẫn còn hiệu lực, và sau
khi phê chuẩn hai bên có thể rút ra khỏi Hiệp ước bằng cách thông báo cho bên
kia biết trước 3 tháng. 
 
Bản Hiệp ước 24 tháng 5 đánh dấu sự chuyển hướng của tổng thống Bush
đối với Liên bang Nga và đồng thời cho thấy tổng thống Putin nhất quyết lái
Liên bang Nga về phía Tây Phương. Bản Hiệp ước do đó có tính chất chính trị nhiều
hơn thực tế giảm vũ khí. Về phía Liên bang Nga dù có thỏa thuận được với Hoa Kỳ
hay không cũng sẽ phải giảm vì không có tiền để duy trì. Riêng Hoa Kỳ cũng thấy
không bị ai đe dọa để phải duy trì một số đầu đạn tấn công nhiều như vậy. Mặt
khác quan hệ cá nhân tốt giữa George W. Bush và Vladimir Putin trực tiếp qua
bản Hiệp ước Mạc Tư Khoa có một tác dụng tâm lý ổn định quan trọng. Putin, và
Bush đang lãnh đạo hai nước lớn và (với một chút may mắn cho Bush) có thể vẫn
còn cầm quyền trong nhiều năm tới. Hai ngày sau Hiệp ước Mạc Tư Khoa, Bush và
Putin lại gặp nhau tại La Mã (Ý đại lợi) với sự hiện diện của 18 nhà lãnh đạo
các nước trong khối Nato để ký một văn kiện hợp tác giữa Nato và Liên bang Nga
trong các lĩnh vực  chống khủng bố,
chống sự lan tràn vũ khí nguyên tử, chống chạy đua vũ trang v.v. để đánh dấu
một tiến trình chấm dứt xung đột Đông Tây. KHối Nato được thành lập các đây 53
năm không ngoài mục đích liên minh chống Liên bang Xô viết.
 
Trên thực tế Hoa Kỳ và Liên bang Nga chưa tin nhau. Hoa Kỳ xem Liên
bang Nga là một quốc gia còn có quá nhiều vấn đề và còn ở rất xa trên con đường
dân chủ. Liên bang Nga trái lại nghi ngờ Hoa Kỳ chỉ muốn chờ dịp để chèn ép
mình. Vì vậy Bush và Putin đều có hậu ý khi xích lại gần nhau. Bush cần sự hợp
tác của Liên bang Nga để chống khủng bố toàn cầu, để hạn chế ảnh hưởng của Liên
minh Âu châu (European Union – EU), và chuẩn bị một chính sách lâu dài với
Trung quốc. Putin cần đối thoại thành công với Hoa Kỳ để tái lập uy tín của
Liên bang Nga và của cá nhân ông. 
 
Khi vào tòa Bạch Ốc, Bush mang vào một chương trình giảm sự liên hệ của
Hoa Kỳ đối với thế giới, đặt trọng tâm vào mậu dịch toàn cầu, và chọn thái độ
vừa cứng rắn vừa coi thường với Trung quốc và Liên bang Nga. Nhưng sau cuộc
đụng độ ngoại giao với Trung Quốc tháng 4/2001 qua vụ Trung quốc chỉ trả tự do
cho một phi hành đoàn của Hoa kỳ sau khi Hoa kỳ nhận lỗi, và với hai phiếu phủ
quyết của Trung quốc và Liên bang Nga tại Hội đồng Bảo An Liên hiệp quốc Bush
nhận thấy Hoa Kỳ không có thế để làm mạnh với Trung quốc và Liên bang Nga như
ông ta tưởng. Bush điều chỉnh chính sách đương đầu với Trung quốc sang chính
sách hợp tác. Và qua chuyến đi Âu châu kỳ này tổng thống Bush hình như  đã làm dịu bớt bề mặt thiếu tế nhị và coi thường
Liên bang Nga sau khi chiến thắng dễ dàng tại Afghanistan. Bush nhận ra rằng
Liên bang Nga tuy không còn sức mạnh của một kẻ địch đáng sợ nhưng Liên bang
Nga có thế, và Liên bang Nga cũng cảnh giác đối với Trung quốc không khác Hoa
Kỳ, trong khi Âu châu tuy đồng văn đồng chủng vẫn là một đối trọng với Hoa Kỳ
(chống chính sách của Hoa kỳ đối với Iraq và Do Thái).
 
Liên bang Nga có những cái thế mà Âu châu không có. Trước hết là kho
nguyên tử. Nếu Liên bang Nga không thận trọng hoặc cố tình để cho các tay khủng
bố đánh cắp nhiên liệu chế tạo vũ khí nguyên tử là một đe dọa lớn cho Hoa Kỳ.
Thứ hai là kho dầu của Liên bang Nga. Liên bang Nga có một kho dầu dự trữ lớn
nhất thế giới, và đang gia tăng đà sản xuất. Nếu Liên bang Nga giữ được đà tăng
hiện nay trong vòng 5 hay 6 năm tới thì Hoa Kỳ sẽ không còn lệ thuộc vào kho
dầu Trung đông như hiện nay và Hoa Kỳ có nhiều tự do hành động hơn nếu Hoa Kỳ
muốn dứt điểm Saddam Hussein. Sau cùng Liên bang Nga có thể giúp Hoa Kỳ trong
cuộc chiến tranh chống khủng bố. Là một đất nước mênh mông trải dài từ Kaliningrad
trên biển Baltic đến Vladivostok trên biển Nhật Bản có nhiều sắc dân sinh sống
và có những vấn đề chủng tộc với thiểu số Hồi giáo, Liên bang Nga dễ  dàng thông cảm những khó khăn của Hoa Kỳ hơn
Âu châu. Sau cùng, Liên bang Nga có nhiều tiếp cận với bộ ba “liên minh ma quỹ”
(Iraq, Iran, Bắc Hàn) qua đường ngoại giao.
 
Nhưng chính sách hòa dịu của Hoa Kỳ đối với Liên bang Nga chỉ thành
công  nếu tổng thống Putin thành công
trong việc cải tổ Liên bang Nga để hội nhập vào cộng đồng thế  giới trên tư thế một cường quốc. 
 
Ưu tiên thứ nhất của Putin là hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Điều
này không đơn giản vì hiện nay khả năng xuất khẩu của Liên bang Nga chưa tới 2%
toàn cầu (Hoa Kỳ 12%, Trung quốc 4.5%), và chính yếu là súng ống và rượu vodka.
Liên bang Nga còn nợ thế giới 143 tỉ mỹ kim. Liên bang Nga trên căn bản vẫn còn
là một quốc gia chưa có luật lệ hoàn chỉnh, và nạn cửa quyền đối với hoạt động
đầu tư vẫn còn là một trở ngại lớn, mặc dù đã có nhiều nỗ lực xây dựng một xã
hội pháp quyền. Mục tiêu của Putin là đưa Liên bang Nga vào Tổ Chức Mậu Dịch
Thế Giới (World Trade Organization – WTO). Muốn vậy Liên bang Nga phải cải tổ
hệ thống ngân hàng, hệ thống các hãng bảo hiểm và tăng năng xuất nông nghiệp.
Liên bang Nga cũng phải ngưng chương trình trợ cấp năng lượng cho các hãng sản
xuất phân bón và thép trong nước để các hãng nước ngoài có thể cạnh tranh.
Putin có thể vận động Quốc hội thông qua những bộ luật để chỉnh đốn các lĩnh
vực trên. Nhưng thông qua luật là một chuyện, công chức Nga không quen tuân
hành luật (vì thiếu một hệ thống tự pháp độc lập) là một chuyện khác. Trong
điều kiện này giấc mộng Liên bang Nga gia nhập WTO của Putin nếu được thực hiện
ít nhất cũng vào giữa hay cuối thập niên 2001-2009 này.
 
Ưu tiên thứ hai là hội nhập chính trị. Trong 10 năm qua,sau khi từ bỏ
chế độ độc đảng, Liên bang Nga đã tiến những bước vững chắc trên con đường hội
nhập này, nhất là từ khi Putin thay thế Boris Yeltsin. Cao điểm là việc ký kết
tại Ý hôm 28 tháng 5 với khối Nato. Tuy nhiên Putin còn nhiều việc cần làm để
Liên bang Nga trở thành một quốc gia biết tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và
nhân quyền. Nếu thế giới lên án hành động của quân đội Do Thái trong cuộc tấn
công vào vùng Tây Ngạn sông Jordan trong tháng 4/2002, thế giới không thể không
lên án Liên bang Nga trong cuộc đàn áp người Hồi giáo Chechnya đòi tự trị.
 
Để mang Liên bang Nga hội nhập vào cộng đồng quốc tế Putin còn phải
chống đỡ khuynh hướng chống Hoa Kỳ trong nước. Đa số người Nga, mặc dù thù ghét
chế độ cộng sản, không tin Hoa Kỳ thật lòng đối với Liên bang Nga, nhất là giới
làm chính sách ngoại giao và nắm quốc phòng. Khó một bậc nữa cho Putin vì những
người dân chủ Nga cũng chưa tin ông. Ông mạnh mẽ chỉ trích tham nhũng và sự lạm
quyền nhưng ông vẫn phải dựa vào quan hệ của ông với giới an ninh (vốn lạm
quyền và tham nhũng) để thực hiện các chính sách của mình. Và Putin mạnh tay
đối với giới truyền thông vốn thích độc lập.
 
Triển vọng hội nhập kinh tế và chính trị của Liên bang Nga vào cộng
đồng thế giới tùy thuộc vào khả năng giải quyết của Putin đối với các căn bệnh
hiện nay như  đà giảm dân số (mỗi năm
giảm 3/4  triệu dân), bệnh AIDs lan
tràn, và vấn đề chủng tộc (Chechnya là một) để mang lại cho Liên bang Nga một
bộ mặt tươm tất. Nếu Putin không thành công, Liên bang Nga rơi vào rối loạn
không ai có thể tiên đoán Hoa Kỳ sẽ hành xử như thế nào, nhất là trước viễn ảnh
chưa biết cuộc chiến tranh chống khủng bố của Hoa Kỳ rẽ vào khác quanh nào. 
 
Bối cảnh này cho thấy thượng đỉnh Mạc Tư Khoa với bản Hiệp ước giảm vũ
khí nguyên tử tổng thống Bush và tổng thống Putin ký tháng 5 vừa qua chỉ là một
sự tiện lợi chính trị cho cả hai nhân vật. 
 
Sự phê chuẩn bản Hiệp ước Mạc Tư Khoa 24 tháng 5 năm 2002 không còn là
một điều quan trọng. Tuy nhiên triển vọng được cả hai quốc hội phê chuẩn rất xa
vời nhất là nếu trong cuộc bầu cử tháng 11/2002 sắp tới đảng Cộng Hòa không
chiếm đa số tại Thượng Viện. 
 
Hoa Kỳ và Liên bang Nga muốn đồng sàng nhưng còn dị mộng. 
 
Trần
Bình Nam (May 30, 2002)
 
(1)    START I
(Strategic Arm Reduction Treaty I) ký năm 1991 giữa Gorbachev và George Bush,
phê chuẩn năm 1994 giảm số đầu đạn nguyên tử hai bên xuống Liên bang Nga còn
5,000 và Hoa Kỳ 6,000.
(2)    START II
(Strategic Arm Reduction Treaty II) ký năm 1993 giữa Boris  Yeltsin và Bill Clinton, quốc hội Liên bang
Nga chưa phê chuẩn, giảm số đầu đạn nguyên tử hai bên xuống 3,000 (Liên bang
Nga) và 3,500 (Hoa Kỳ)
 
Tài liệu tham khảo:
1.      Weekly
Washington Post May 20-26, 2002. “A Pact that Packs a Lot” by Peter Slevin
& Walter Pincus.
2.      Los
Angeles Times May 25, 2002. “Bush and Putin Sign Nuclear Arms Treaty” by James
Gerstenzang
3.      Los
Angeles Time May 29, 2002. “NATO, Russia Remake History With Accord.” by David
Holley & James Gerstenzang
4.      The
Economist, May 18 – 24, 2002. “To Russia for love”, and “Vladimir Putin’s long
,hard haul”
5.     
The Economist, May 25 – 31, 2002. “Reaching out to
Vladimir” by Lexington
 
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |