Thượng Đỉnh Nam Bắc Hàn

 

Trần Bình Nam

 

Khi máy bay của tổng thống Nam Hàn Kim Đại Trọng (Kim Dae Jung) đáp xuống phi trường Bình Nhưỡng (Pyongyang)  ngày 13 tháng 6 (13/6/2000)  mở đầu cuộc họp thượng đỉnh lịch sử Bắc Nam Hàn sau 50 năm ở trong tình trạng chiến tranh, thế giới bàn tàn nhiều đến triển vọng thống nhất Bắc Nam Hàn, nhớ lại cuộc thống nhất trước đây của Việt Nam và Đức quốc.

Nhưng có một khác biệt căn bản giữa Bắc Nam Hàn với Việt Nam và Đức Quốc. Việt Nam được thống nhất bằng vũ lực, và Đức quốc thống nhất sau khi chế độ cộng sản Đông Đức sụp đổ. Nếu Bắc Hàn còn nằm dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản Bắc Hàn thì Nam Bắc Hàn có thể thống nhất bằng cách nào? Nam Hàn chịu đặt mình dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Bắc Hàn? Không thể được. Nam Hàn đã và vẫn  chống lại điều này trong gần nữa thế kỷ qua. Ba mươi bảy ngàn (37.000) quân nhân Mỹ còn đóng ở Nam Hàn cũng vì vậy. Bắc Hàn chịu từ bỏ chế độ độc đảng, chấp nhận bầu cử tự do, thống nhất đất nước dưới chế độ dân chủ? Một tiến trình hợp lý, nhưng với bản chất của chế độ độc tài cha truyền con nối từ  Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) qua Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) người ta ít hy vọng đó là con đường Kim Chính Nhật chọn. Biết rằng đây là một câu hỏi không có câu trả lời, bản thông cáo chung giữa hai nhà lãnh đạo Nam Bắc Hàn chỉ nêu ra nguyên tắc chuyển tiếp của tiến trình thống nhất là một cái gì chung chung hiểu sao thì hiểu giữa hai công thức: một bên là hai quốc gia liên minh lỏng lẻo (Confederation) của Nam Hàn, một bên là hai tiểu bang với sắc thái riêng biệt dưới một chính phủ trung ương (Federation)  của Bắc Hàn.

Nhưng sự thật chuyện thống nhất và hòa bình không phải là chuyện chính trong suy nghĩ của Kim Chính Nhật. Sau khi khối Liên xô sụp đổ, nguồn viện trợ của Nga cạn dần, Hoa Kỳ siết chặc vòng vây cấm vận, kinh tế Bắc Hàn rơi vào tình trạng suy sụp, hàng vạn người dân Bắc Hàn chết đói, Kim Nhật Thành (thân phụ của Kim Chính Nhật) biết nếu không tìm một lối thoát chính quyền của ông sẽ sụp đổ từ bên trong. Kim Nhật Thành, và sau này Kim Chính Nhật tìm lối thoát bằng cách hù dọa thế giới. Dọa rút chân ra khỏi Thỏa ước Không Phổ biến Vũ khí Nguyên tử (NPT), dọa chế bom nguyên tử , dọa xâm lăng Nam Hàn, dọa chế tạo hỏa tiễn liên lục địa... . Thế giới Tây phương vừa cất được gánh nặng chiến tranh lạnh sau khi khối Liên xô sụp đổ, đang thở hít chút không khí thoải mái nên vô lẽ để Bắc Hàn ngỗ ngáo gây ra chiến tranh. Thế giới giàu có, trong đó có Nhật Bản góp phần, dùng tiền của ém miệng Bắc Hàn. Cả hai vụ dọa chế tạo vũ khí nguyên tử năm 1994 do Kim Nhật Thành chủ trương, và vụ thí nghiệm hỏa tiễn tầm trung năm 1998 của Kim Chính Nhật (kế nghiệp cha lãnh đạo Bắc Hàn sau khi Kim Nhật Thành qua đời tháng 7 năm 1994) Bắc Hàn đều có lời. Năm 1994 sau chuyến đông du của cựu tổng thống Jimmy Carter Bắc Hàn hứa phá bỏ các lò phản ứng nguyên tử của mình và Liên hiệp quốc hứa trang bị cho Bắc Hàn hai lò điện nguyên tử loại không sản xuất nhiên liệu plutonium dùng chế bom nguyên tử . Hoa Kỳ hứa cung cấp dầu và tiếp tục các cuộc thương thuyết tái lập quan hệ bình thường giữa hai nước. Năm 1998 sợ hỏa tiễn của Bắc Hàn được bán cho các nước Trung đông, Hoa Kỳ vội hứa tái cung cấp dầu (trước đó tạm cắt vì thái độ thiếu hợp tác của Kim Nhật Thành) cho Bắc Hàn  và sẽ nới lỏng các biện pháp cấm vận.

Lần này Bắc Hàn dùng mặt trận truyền thông và tấn công ngoại giao. Nhưng mục đích chỉ là một: Giải tỏa áp lực bên trong và bên ngoài có khả năng làm sụp đổ sự cai trị của gia đình họ Kim. Đã quá chậm trong quá trình cởi mở để sống còn, Kim Chính Nhật cần đánh mạnh và đánh mau mặt dư luận quốc tế để chóng kịp bước với Trung quốc và Việt Nam trong sách lược kinh tế thị trường dưới sự  lãnh đạo của đảng cộng sản. Sau một năm chuẩn bị: thân thiện với Trung quốc hơn, thiết lập quan hệ ngoại giao với Ý và Úc, Kim Chính Nhật mở cửa đón tiếp tổng thống Kim Đại Trọng của Nam Hàn.

Cuộc thăm viếng Bắc Hàn ba ngày (13, 14 & 15/6/2000) của tổng thống Kim Đại Trọng được dư luận thế giới chú ý đúng mức không khác gì năm1968 khi Hoa Kỳ và Hà Nội bắt đầu các cuộc thương thuyết tại Paris. Cả thế giới vui mừng theo dõi, nhiều người dân Nam Hàn phát khóc khi thấy Kim Đại Trọng và Kim Chính Nhật bắt tay nhau, tưởng chừng mọi căng thẳng tồn tại 50 năm qua giữa hai miền sẽ được giải quyết. Kim Chính Nhật, con người bí hiểm chủ trương phá hoại, cho tàu ngầm mang gián điệp vào Nam Hàn (1998) từng làm thế giới lên cơn sốt, đã dùng đại lễ đón tiếp tổng thống Nam Hàn. Ông đích thân ra phi trường chào mừng người khách quí và ra lệnh huy động 600.000 dân đứng dọc hai bên đường từ phi trường về dinh chủ tịch chào mừng tổng thống họ Kim. Ngày 15/6 hai họ Kim công bố bản Thông cáo chung. Hoa Kỳ phấn khởi công bố quyết định giải tỏa một phần lệnh cấm vận để bày tỏ sự hài lòng của mình.

Thông cáo chung 5 điễm do Kim Đại Trọng và Kim Chính Nhật ký và công bố (ngày 15/6/2000) gồm những gì? Điểm một và điểm hai đồng ý nói chuyện thống nhất; điểm ba Bắc Hàn đồng ý cho thân nhân hai bên do chiến tranh chia cắt được gặp nhau và Nam Hàn thả gián điệp Bắc Hàn đang bị cầm tù tại Nam Hàn; thứ tư hợp tác kinh tế và hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, y tế và môi trường ... ; thứ năm đồng ý giao cho giới chức cấp chuyên môn gặp nhau tìm giải pháp thi hành. Sau cùng thông cáo ghi nhận tổng thống Kim Đại Trọng chính thức mời Kim Chính Nhật thăm Nam Hàn và ông ta nhận lời sẽ đi thăm vào thời điểm thuận tiện.

Chuyện thống nhất ghi trong điều 1 và 2  là chuyện "miếng trầu là đầu câu chuyện" không phải là điều quan trọng trong trí hai nhà lãnh đạo Bắc Nam Hàn, ít nhất trong lúc này. Điểm thứ năm không có gì để bàn. Còn lại hai điểm 3 và 4 có nội dung áp dụng ngay thì đều có lợi cho Bắc Hàn. Bắc Hàn dùng việc cho phép thân nhân gặp nhau là một vấn đề nhân đạo để đổi lấy 300 gián điệp Bắc Hàn, những người cương quyết trung thành với chế độ cộng sản (trong khi tổng thống Kim Đại Trọng không đòi Bắc Hàn trả một số quân nhân Nam Hàn còn bị Bắc Hàn giam giữ). Còn trao đổi kinh tế? Bắc Hàn gạo không đủ  ăn lấy gì để trao đổi? Điểm 4 chỉ là một cách ngửa nón xin tiền đầu tư, thực phẩm, phân bón của Nam Hàn dưới nhãn hiệu hợp tác kinh tế. Điểm phụ Kim Chính Nhật hứa thăm viếng Nam Hàn vào lúc thuận tiện là một bố trí khéo léo khác của Bắc Hàn. Lúc nào là lúc thuận tiện? Nếu thế giới dân chủ muốn trông thấy chuyến thăm viếng đáp lễ ngoạn mục này thì "lúc thuận tiện" đối với Bắc Hàn là khi nào họ thỏa mãn về việc thi hành hai điều khoản 3 và 4 của thông cáo chung. Nam Hàn phải trả tù gián điệp cho Bắc Hàn, phải viện trợ kinh tế dồi dào cho Bắc Hàn và Hoa Kỳ phải nới lỏng lệnh cấm vận hơn nữa để đổi lấy một chuyến thăm viếng vô tích sự của Kim Chính Nhật.

Nhìn chung,  quan hệ mới giữa Nam Bắc Hàn qua chuyến thăm Bắc Hàn của tổng thống Kim Đại Trọng chỉ có tác dụng làm cho tình hình vùng Đông Bắc Á châu bớt căng thẳng. Không có một triển vọng gì khác hơn cho phe dân chủ, ngoài một chút hy vọng mơ hồ "diễn biến hòa bình" sẽ làm cho Bắc Hàn sụp đổ. Không có gì bảo đảm Bắc Hàn sẽ không tiếp tục phát triển khả năng nguyên tử và hỏa tiễn để tăng thế đòn bẩy trong các cuộc mà cả về sau.

Mực của bản thông cáo chung chưa ráo, khó khăn đã xuất hiện. Thi hành điều 3, ngày 27 tháng 6 đại diện hai hội Hồng thập tự  Nam Bắc Hàn gặp nhau. Bắc Hàn đòi họp tại một khu du lịch của Bắc Hàn gần núi Kumkang bên cạnh bờ biển phía đông Bắc Hàn,  bác bỏ đề nghị của Nam Hàn họp tại làng Bàn Môn Điếm (Panmungjom) nằm ngay biên giới nam bắc, một nơi xưa nay hai bên vẫn gặp nhau khi có vấn đề phải giải quyết. Bắc Hàn đồng ý cho 5 ký giả Nam Hàn theo phái đoàn, nhưng phút chót không cho ký giả của báo Chosun Ilbo vào, lấy lý do báo này không có thiện cảm với Bắc Hàn. Vào họp, Bắc Hàn yêu cầu Nam Hàn trả tự do cho gián điệp Bắc Hàn trước họ mới cho phép 100 gia đình ly tán (một con số rất nhỏ) gặp nhau vào tháng 8 tới (có 7 triệu 6 trăm ngàn người Nam Hàn có thân nhân xa gần sống ở miền Bắc). Sau 2 ngày họp, khi đại diện Hồng thập tự Nam Hàn đưa phản đề nghị không hợp ý, đại diện Bắc Hàn bỏ phòng họp ra về. Chiến thuật của Bắc Hàn là bắt chẹt, với tính toán rằng vô lẽ với bao nhiêu phấn khởi ồn ào Kim Đại Trọng và Hoa Kỳ lại đành để cho nó nguội lạnh nên sẽ nhượng bộ. Tuy không có một chiến trường như chiến trường Việt Nam năm 1968, mọi dấu hiệu cho thấy Bắc Hàn đang áp dụng bài học thương thuyết Paris giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Cù nhầy, đòi hỏi, không nhượng bộ, tạo áp lực trong thế giới Tây phương nhiều thông tin nhưng ít nắm được bản chất  tuyên truyền của người cộng sản để đạt mục đích  tối hậu.

Phe dân chủ sẽ lùi đến đâu, và quan hệ mới giữa Bắc Nam Hàn sẽ ra sao? Tây phương có câu, một bản tango đẹp cần hai người nhảy giỏi (It takes two to tango). Kim Đại Trọng là một người nhảy giỏi. Quá trình chính trị của ông chứng tỏ ông là người có một tấm lòng lớn đối với quốc gia dân tộc. Ông kiên trì đem sinh mạng, nhiều lần suýt bị giết, tranh đấu cho dân chủ ở Nam Hàn. Thành công, trở thành tổng thống Nam Hàn ông tha thứ  cho những người đã từng tính giết ông và đưa bàn tay rộng lượng đến với đồng bào ruột thịt ở  phương bắc. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ Kim Chính Nhật là một người nhảy giỏi. Quá trình nối ngôi cha, học hết nghề chính trị ma mãnh và tàn bạo của Kim Nhật Thành đã là một báo hiệu xấu, và nhạc mới trổi đã chơi xấu. Cho nên chuyện tổng thống Kim Đại Trọng thăm Bắc Hàn, ký thông cáo chung, hai bên hứa hẹn, vui thì có vui, lạ thì có lạ, nhưng không có gì để vỗ tay tán thưởng. Trái lại nên đề cao cảnh giác nếu không muốn "tiền mất tật lưa." (July 2000)

 


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn