Tổ
chức Mậu dịch Thế giới:
Con
dao hai lưỡi
Trần Bình 
Việt 
Đây là một biến
chuyển quan trọng có lợi cho sự phát triển kinh tế Việt 
Trung quốc
vào WTO tháng 12 năm 2001 và mới đây họ bỏ ra hàng trăm nghìn mỹ kim quảng cáo
sự thành công khi vào WTO (**)
Trung quốc
nói rằng lúc đầu nhiều người Trung quốc sợ rằng vào WTO sẽ bị các nước khác lấn
áp kỹ nghệ trong nước, đặc biệt về ngành sản xuất thép, dụng cụ truyền tin  (telecommunications)
và lĩnh vực ngân hàng. Nhưng Trung quốc nói rằng sự tăng trưởng về xuất nhập
cảng đã không làm ảnh hưởng đến những lĩnh vực này, và trong 5 năm qua mức tăng
trưởng của Trung quốc đã tăng lên gần gấp đôi, từ 3.9% lên 7.7%. Và trong cùng
thời gian đó trung bình họ giảm quan thuế từ 15.3% (vào năm 2001) xuống 9.9%
(vào năm 2005) và họ đã tôn trọng mọi luật lệ của WTO cho phép người nước ngoài
và tư nhân trong nước đầu tư. Trung quốc hứa hẹn họ sẽ làm
bất cứ gì để giúp giải quyết những tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Âu châu về việc
trợ cấp nông dân. 
Nhưng Trung
quốc bỏ tiền quảng cáo những gì họ đã làm để có cớ than phiền rằng “chúng tôi
tỏ thiện chí như vậy” nhưng WTO vẫn chưa chấp nhận Trung quốc là một nước có
nền “kinh tế thị trường” đúng nghĩa và nếu trong năm 2001 15% vụ chống phá giá
trên thị trường quốc tế nhắm vào Trung quốc thì trong năm 2005 con số này lên
đến 30% và trong ba tháng đầu năm của năm 2006, 27% các vụ kiện chống phá giá
đều nhắm vào Trung quốc.
Những nhà có trách nhiệm về kinh tế Việt 
WTO mở ra
làn sóng toàn cầu hóa kinh tế thế giới và làm cho thế giới giàu có thêm là một
điều không ai chối cãi, nhưng bên cạnh sự mở mang của những công ty đa  quốc do các nước
tiên tiến kiểm soát cũng có hàng triệu người thất nghiệp vì toàn cầu hóa. Một
nước bán ra một món hàng rẻ mạt vào một nước khác thì nước kia
phải đóng của hãng thôi.
Nhìn lại lịch sử của sự hình thành WTO và những gì nó đem lại
(và không đem lại) cho thế giới để chuẩn bị thế đứng là điều cần làm (www.wto.org). 
Tháng 7 năm
1944, trước khi Thế chiến thứ II chấm dứt, 44 quốc gia đồng minh đã triệu tập
một buổi họp tại Bretton Woods (bang New Hampshire, Hoa Kỳ) để chuẩn bị một
chương trình phát triển kinh tế thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt, và đã
đạt được một thỏa thuận ngoạn mục.
Sự thỏa thuận này được gọi là General
Agreement on Tariffs and Trade (viết tắt GATT). GATT là một thỏa thuận về tài chánh và quan thuế. Và tài chánh và quan
thuế thì có trăm ngàn ngõ ngách nên thỉnh thoảng các quốc gia hội viên cần
thương thuyết với nhau để tìm thêm sự thỏa thuận ở lĩnh vực này hay lĩnh vực
khác. 
Sau năm 1944 các buổi 
họp của GATT bắt đầu lại từ năm 1947. Từ năm 1959 đến năm 1979 các nước
hội viên gặp nhau 3 lần nữa. Cho đến tháng 9 năm 1986 khi họp tại Uruguay (Nam
Mỹ) các nước hội viên mới có một nghị trình nhất định.
Và từ đó cho đến năm 1994 các nước họp nhiều lần và tại
nhiều nơi trên thế giới như Montréal, Geneva, Brussels, Hoa thịnh đốn, Tokyo
(nhưng vẫn gọi là vòng đàm phán Uruguay). Những vòng đàm phán này thông qua ít
nhất là 20 thỏa thuận về thuế quan và đã giúp cho sự phát triển kinh tế trên
thế giới qua những đồng thuận như tạo điều kiện cho những nước sống bằng nông
nghiệp, giới hạn sự đầu tư ngoại quốc tại một số nước để các nước này có cơ hội
tự phát triển, và giúp thiết lập chế độ bảo hiểm và xây dựng ngân hàng. Đồng
thời thỏa thuận việc cấm sao chép sáng kiến trái phép và bảo vệ quyền sở hữu
tinh thần. Trước thành quả đó năm 1994 GATT biến thành Tổ chức Mậu dịch Thế
giới (WTO). 
Vấn nạn của WTO bắt đầu từ khi GATT biến thành tổ chức.
GATT là một thỏa thuận, nước nào đồng ý với nhau thì làm, không đồng ý thì
thôi. Còn khi đã biến thành tổ chức thì có ban lãnh đạo, có quy tắc, có thưởng,
có phạt. WTO biến thành một “chính phủ” vô hình trong tay các công ty liên
quốc. Thợ thuyền cảm thấy công ăn việc làm bị đe dọa và các tổ chức công đoàn
bắt đầu phản đối các chính sách của WTO.
Năm 1999 khi WTO họp tại Seattle, công đoàn Hoa Kỳ và thợ
thuyền trên thế giới đã kéo về phản đối đưa đến bạo động. Cuộc họp của WTO bất
thành. Sau đó WTO quyết định tổ chức tại Doha nước Qatar để dễ kiểm soát. Từ đó
các cuộc hội đàm của WTO gọi là vòng hội đàm Doha.
Các nghiệp đoàn đã lên tiếng, các nước nhỏ đã lên tiếng,
nên rút kinh nghiệm, nghị trình của các vòng hội đàm Doha có bàn về các vấn đề
các quốc gia đang phát triển quan tâm. Nhưng trở ngại chính vẫn là sự tranh
chấp về bảo trợ nông nghiệp giữa Hoa Kỳ và Âu châu.
Cuộc họp tại Cancun, Mexico năm 2003 bất thành vì Hoa Kỳ
và Âu châu không thể thỏa thuận trong nhiều lĩnh vực mà quan trọng nhất là trợ
cấp nông dân và thay đổi thuế quan. Về một mặt khác, bốn nước đang phát triển
và còn dựa vào nông nghiệp như Trung quốc, Ấn độ, Brazil và Nam phi đều chống
lại chương trình của Hoa Kỳ và Âu châu về trợ cấp nông nghiệp làm cho nông phẩm
của họ không thể tiêu thụ được (bốn nước này chiếm 65% dân số thế giới,72% dân
làm nghề nông và sản xuất 2/3 nông phẩm trên thế giới).
Tháng Tám năm 2004 tại Geneva, vòng đàm phán Doha thành
công sau khi Hoa Kỳ và Âu châu đồng ý giảm trợ cấp nông dân, còn các nước đang
phát triển như Trung quốc và Ấn độ đồng ý giảm thuế quan đa số các phẩm vật kỹ
nghệ, ngoại trừ một số lĩnh vực còn trong giai đoạn phôi thai họ cần bảo vệ.
Nhưng đến vòng hội đàm Doha ở Paris năm 2005 mọi sự lại
bế tắc vì nông dân Pháp xuống đường ồ ạt chống giảm trợ cấp, trong khi Hoa Kỳ,
Úc châu, Liên hiệp Âu châu và Brazil, Ấn độ không đồng ý về quan thuế đối với
thịt gà, thịt bò và lúa gạo.
Tháng 12 năm 2005 vòng Doha họp tại Hồng Kông đồng ý đến
năm 2013 sẽ bỏ hẳn trợ cấp nông phẩm, và các nước đã phát triển xóa bỏ hoàn
toàn hàng rào quan thuế cho các phẩm vật của các nước khác trên thế gới. 
Nhưng
các thỏa thuận trên cũng chỉ là hình thức. Tháng 7 năm 2006 vòng hội đàm Daho
họp tại Geneva mọi sự lại trở lại trên bàn hội nghị và càng lúc càng khó hơn vì
khuynh hướng bảo vệ kinh tế của Hoa Kỳ. Luật cho phép tổng thống Hoa Kỳ thỏa
thuận các thoả ước mậu dịch không cần thông qua Thượng nghị viện (fast tract
authority) hết hiệu lực năm 2007 và với đảng Dân chủ kiểm soát quốc hội, Hoa Kỳ
sẽ cứng rắn hơn trong việc bảo vệ mậu dịch. 
Việt
nam gia nhập WTO trong bối cảnh đó. Sự gia nhập quả nhiên có lợi trước mắt vì
nhân công Việt Nam rẻ, xuất cảng được nhiều vì quan thuế thấp. Nhưng Việt Nam
cũng đứng trước những cạnh tranh quốc tế mà không biết những người lãnh đạo
Việt Nam đã sẳn sàng chưa?
Hai
lĩnh vực quan trọng Việt Nam cần quan tâm là cải tổ nghiệp vụ ngân hàng và chuyển
nhượng kỹ thuật.
Theo
một bản phân tích của hai kinh tế gia Phan Văn Sâm và Võ Thanh Thu, (http://www.wto.org/English/res_e/booksp_e/casestudies_e/case45_e.htm)
kể từ khi ký thỏa ước BTA với Hoa Kỳ (năm 2001) Việt Nam buộc phải thay đổi
cung cách điều hành ngân hàng, và đây cũng là một chuẩn bị cần thiết khi Việt
Nam gia nhập WTO. Và hình như Việt Nam chưa chuẩn bị vì hệ thống ngân hàng Việt
Nam còn bảo vệ lĩnh vực công và kỳ thị lĩnh vực tư. 
Vấn
đề này không còn là một vấn đề kinh tế thuần túy mà là một vấn đề chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam dùng quyền cấp tín dụng để bảo vệ lĩnh vực công, có
nghĩa là bảo vệ quyền lợi của đảng. Nhưng sự thi hành BTA với Hoa Kỳ và trở
thành hội viên của WTO, Việt Nam không thể không cải tổ nghiệp vụ ngân hàng.
Vấn
đề chuyển nhượng kỹ thuật còn là một
vấn đề quan  trọng hơn, và nếu các nhà
lãnh đạo Việt Nam quan tâm thì đó là điều hữu ích nhất của sự gia nhập WTO, lôi
hút đầu tư và đáng công làm thợ để
học làm thầy. 
Trong
cuộc hội thảo mùa hè năm 2005 tại Đà Nẵng, ông Võ Xuân Hân đã nêu ra vấn đề
“chuyển nhượng kỹ thuật” mà ông ta gọi là “chuyển
giao công nghệ ” và tôi nghĩ đó là đề tài quan trọng nhất cho quốc gia nhất
là sau khi gia nhập WTO. (http://hoithao.viet-studies.org/2005_VXHan.pdf
Chuyển Giao Công nghệ nôm na là tìm đường học lấy
những kiến thức kỹ thuật qua các giao kèo đầu tư khôn ngoan. Và điều này đòi
hỏi một chính sách lớn của quốc gia. Nếu không có chương trình Chuyển Giao Công
Nghệ thì cái gì cũng có thể “made in Vietnam” nhưng chúng ta không nắm được
“know-how” và bí mật kỹ thuật đều ở trong tay các kỹ sư nước ngoài, Việt Nam
chỉ là thị trường cung cấp nhân công. 
Việt
Nam cần có chương trình phối hợp nhận đầu tư với sự đào tạo chuyên viên và thu
nhận “know-how”. Hãy theo gương các nước chung quanh (trong trường hợp này đáng
theo gương Trung quốc nhất). 
Bài
trình bày của ông Võ Xuân Hân (cùng với tài liệu trích dẫn) dài 22 trang tôi
nghĩ phải là tài liệu gối đầu giường của những nhà lãnh đạo Việt Nam nếu chúng
ta  muốn vượt qua ngưỡng cửa nghèo khó để
vươn lên, dù có chậm mươi năm nhưng mới có cơ hội trở thành một quốc gia phát
triển (developed country). 
Trần
Bình 
(*) Theo điều lệ của WTO, sau ngày Hội đồng Trung ương (WTO General
Council) biểu quyết chấp nhận một nước trở thành hội viên, nước đó sẽ chính
thức trở thành hội viên một tháng sau khi quốc gia nước đó phê chuẩn quyết định
của Hội đồng Trung ương WTO. Hội đồng Trung ương WTO biểu
quyết chấp thuận Việt 
(**) An
advertising supplement to the 
   
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |