Toàn dân nghe chăng:

Sơn hà nguy biến!

 

Trần bình Nam

 

Ngày 2/12/2007,chính phủ Trung quốc (người Trung hoa gọi là Quốc Vụ Viện) phê chuẩn quyết định thành lập thành phố hành chánh cấp huyện Tam Sa gồm ba quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa (Macclesfield Bank, một đảo đá ngầm rộng chừng 6.250 km vuông nằm ở phía đông và cách trung tâm quần đảo Hoàng Sa 250 km) và Trường Sa đặt trực thuộc tỉnh Hải Nam. Tỉnh này được thành lập năm 1988 sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Đông.

Quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys) nằm ngoài khơi bờ biển Việt Nam.  Quần đảo Hoàng Sa nằm giữa vĩ độ 16 và 17 bắc, về phương diện hành chánh thuộc thành phố Đà Nẵng và trung tâm quần đảo cách Đà Nẵng 350 km. Quần đảo Trường Sa lớn hơn nhiều, trải dài từ vĩ độ 7 đến vĩ độ 11 bắc, trực thuộc tỉnh Khánh hòa, và trung tâm cách bờ biển chừng 600 km, nhìn từ thành phố Nha Trang hướng Đông Nam.

Trong suốt thời gian Pháp thuộc (từ giữa thế kỷ 19 đến năm  1945), sau đó qua chính quyền Trần Trọng Kim, chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chính quyền do quốc trưởng Bảo Đại, hai quần đảo này đều do các chính quyền của người Việt Nam quản lý và là một phần không tách rời của Việt Nam. Thời Pháp thuộc người Pháp đặt một trạm thu thập dữ kiện khí tượng trên hòn đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa. Sau Hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nằm dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Tàu chiến của Việt Nam Cộng Hòa vẫn thường tiếp tế cho một đơn vị quân đội đóng tại Hoàng Sa, và thường thăm viếng trông coi các cụm trong đảo Trường Sa.

Ngược dòng lịch sử trở về trước, từ thế kỷ thứ 17 hằng năm các chúa Nguyễn vẫn cho chiến thuyền viếng Hoàng Sa và Trường Sa, và thiết lập một hải đội lấy tên là hải đội Bắc Hải để bảo vệ các hải đảo này. Một ký sự của nhà sư Trung quốc là Thích Đại Sán viết năm 1696 xác nhận sự kiện này. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong một sử liệu viết năm 1776 đã mô tả khá chi tiết về quần đảo Hoàng Sa.

Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước (1802), các sử liệu khác như Dư Địa Chí, Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Nhất Thống Chí đều ghi nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Không có một sử liệu nào của Tây phương ghi Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung quốc. Và ngay cả các tài liệu của Trung quốc (trước năm 1909) cũng không có nơi nào nói hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung quốc.

Kế hoạch lấn chiếm đất Việt Nam của Trung quốc bắt đầu từ năm 1958 khi Mao đã thiết lập vững vàng chế độ cộng sản sau nhiều thế kỷ bị các thế lực tây phương uy hiếp. Ngày 4/9/1958 Trung quốc ra một tuyên bố 4 điểm về lãnh hải (từ bờ đất ra biển) và chủ quyền của Trung quốc trên một số đảo chung quanh gồm có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên bố xác định lãnh hải của Trung quốc vòng theo bờ biển lục địa và các hải đảo chung quanh là 12 hải lý (thay vì 3 hải lý như trước), và kèm với tuyên bố này là một bản đồ có đường ranh giới lãnh hải bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (1).

http://www.doi-thoai.com/pictures/ThuPhamVanDong_TruongSa.jpgMười ngày sau (ngày 14/9/1958) thủ tướng miền Bắc Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung quốc mà không nói gì đến Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy vậy công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng xem như mặc nhiên chấp nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung quốc. Đây là một sơ suất ngoại giao hay cố ý mập mờ của đảng Cộng sản Việt Nam công nhận ngầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thống thuộc Trung quốc (hơn là để cho Việt Nam Cộng Hòa quản lý) vẫn còn là một nghi vấn lịch sử. Không bỏ lỡ cơ hội, Trung quốc lấn tới và từng bước một, triển khai kế hoạch chiếm đất chiếm biển của Việt Nam.

Tuy nhiên trong thời gian này Trung quốc chưa thể làm gì với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vì - sau Hiệp định Geneva chia đôi đất nước ký ngày 20/7/1954 - đang do Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh của Hoa Kỳ trấn giữ. Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đang làm chủ vùng biển tây Thái Bình Dương.

Cơ hội lớn tới vào thập niên 1970’s, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn kết thúc, Hà Nội sắp chiếm Việt Nam qua Hiệp định Paris (hậu quả là sẽ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa). Hoa Kỳ không muốn Liên bang Xô viết qua chính quyền Hà Nội dùng Hoàng Sa và Trường Sa dòm ngó Nam Thái bình dương gây khó khăn trên thủy lộ từ Ấn độ dương xuyên qua eo biển Malacca lên phía tây bắc Thái bình dương, con đường huyết mạch cho hạm đội của Hoa Kỳ, và cũng là con đường chuyển vận dầu hỏa từ Trung đông đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, những đồng minh của Hoa Kỳ, nên Hoa Kỳ đã dàn xếp, qua một cuộc gặp gỡ giữa Henry Kissinger, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ và thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh để Trung quốc chiếm đảo Hoàng Sa. Vào thời điểm này quan hệ giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa tốt đẹp nhưng căng thẳng với Bắc Kinh. Trong khi đó Hoa Kỳ vừa thiết lập bang giao với Bắc Kinh và quan hệ giữa hai nước khá tốt đẹp. (Xem tài liệu “Biển Đông Dậy Sóng” số 118, www.tranbinhnam.com , trang Bình luận).

Với giao ước bất thành văn đó, hải quân Trung quốc đã đem quân chiếm Hoàng Sa sau một trận hải chiến cuối tháng 1 năm 1974 với hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Hạm đội 7 của Hoa Kỳ được kêu gọi tiếp cứu nhưng không can thiệp, ngay cả việc giúp cứu các thủy thủ trôi dạt trên biển. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã can thiệp để các tù nhân bị Trung quốc bắt trong trận đánh được trả tự do trong một thời gian kỷ lục. Ngày 31/1/1974 các tù nhân, trong đó có một nhân viên dân chính Hoa Kỳ, ông Gerald Kosh làm việc tại phòng tùy viên quân sự tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sàigòn được biệt phái làm liên lạc viên tại bộ tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải, được trả tự do tại Hồng Kông. Trước cuộc xâm lấn này Hà Nội không hề lên tiếng phản đối Trung quốc.

Sau năm 1991 khi Hà Nội làm hòa với Trung quốc trước sự sụp đổ của khối Liên xô, Trung quốc được đà bắt đầu gặm nhắm đất biên giới phía bắc Việt Nam, lấn biển trong vịnh Bắc bộ và nhất là từng bước lấn chiếm quần đảo Trường Sa. Trường Sa lúc này ngoài vị trí chiến lược cố hữu của nó, còn hứa hẹn một thềm lục địa phong phú dầu hỏa và khí đốt.

Hà Nội đã tỏ ra yếu mềm trước sự xâm lấn của Trung quốc. Vũ khí duy nhất Hà Nội dùng cho đến lúc này là những lời phản đối lấy lệ của Bộ ngoại giao.

Lần này, trước quyết định của Quốc Vụ Viện Trung quốc sát nhập một cách chính thức đất đai của Việt Nam vào đất đai của họ, Hà Nội cũng chỉ phản đối một cách nhẹ nhàng. Trong cuộc họp báo ngày 5/12/2007 tại Hà Nội ông Lê Dũng, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên."

Người Việt trong nước và hải ngoại hết sức phẫn nộ trước hành động giựt đất bằng giấy tờ của Trung quốc và chờ đợi chính quyền Hà Nội có những động thái bảo vệ bờ cõi mạnh mẽ như truyền thống chống xâm lăng của tổ tiên.

Rất tiếc cho đến giờ này chính quyền Hà Nội đã không làm gì hơn ngoài lời phát biểu xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Sinh viên trường Đại Học Công Nghệ thuộc hệ thống Đại Học Quốc gia Hà Nội chuẩn bị biểu tình trước tòa đại sứ Trung quốc thì giới chức đại học (theo lệnh đảng) ra thông tư yêu cầu sinh viên và cán bộ các cấp của trường hãy bình tĩnh không nên biểu tình vì “không có lợi  cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển của hai bên.

Dù vậy, trước sự sôi sục của quần chúng chính quyền Hà Nội cũng không ngăn cản được dân chúng, phần đông là sinh viên, ở hai thành phố Hà Nội và Sài gòn xuống đường phản đối Trung quốc lấn đất trong ngày 9/12/2007. Nhưng sợ mất lòng Trung quốc, khi được hỏi về các cuộc biểu tình, phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Lê Dũng nói: “Đây là việc làm tự phát chưa được phép của các cơ quan chức năng Việt Nam. Khi các vụ việc trên xảy ra, các lực lượng bảo vệ của Việt Nam đã kịp thời có mặt, giải thích và yêu cầu bà con chấm dứt việc làm này." Và ông Lê Dũng nói tiếp quan điểm của Việt Nam là “thông qua đàm phán, giải quyết một cách hòa bình mọi tranh chấp trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế.

Với cung cách trên Hà Nội chứng tỏ quá yếu ớt trước hành động giựt đất của lân bang không xứng đáng là một nhà nước có chủ quyền.

Với tương quan lực lượng hiện nay, Việt Nam không đủ sức cho tàu chiến ra cắm cờ tại các hòn đảo Trường Sa để xác nhận chủ quyền, nhưng ít nhất Hà Nội cũng phải huy động mọi phương tiện chính trị và ngoại giao để làm sáng tỏ vấn đề. Trước hết triệu tập đại sứ của Trung quốc tại Việt Nam đến bộ ngoại giao để nhận công hàm phản đối, sau đó là triệu tập quốc hội chính thức ra tuyên cáo trước quốc dân xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.Tiếp theo đó là đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc với toàn bộ tài liệu lịch sử chứng minh Hoàng Sa và Trường thuộc chủ quyền của Việt Nam và chuẩn bị một bản quyết nghị mạnh mẽ lên án sự xâm lấn đất đai của Trung quốc và yêu cầu Hội đồng Bảo an thông qua.

Trên thực tế Trung quốc nắm phiếu phủ quyết nên quyết nghị sẽ không thể thông qua, nhưng Việt Nam sẽ dễ dàng có hơn 9 phiếu trên 15 phiếu của Hội đồng  Bảo an để phản ánh sự đồng tình của quốc tế lên án Trung quốc có manh tâm giựt đất của Việt Nam. Những tài liệu và quyết nghị do Việt Nam trình Hội đồng Bảo an sẽ là những tài liệu làm nền móng cho chính quyền hôm nay huy động sức dân bảo vệ Trường Sa, và cho các thế hệ mai sau tiến hành cuộc đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa, và vô hiệu hóa sự sát nhập Trường Sa. Ngoài ra Hà Nội có thể vận động những nước bạn riêng lẽ lên tiếng ủng hộ lập trường lãnh thổ của Việt Nam.

Hà Nội còn cần đệ đơn kiện Trung quốc trước tòa án quốc tế yêu cầu tòa quốc tế vô hiệu hóa sắc lệnh của Quốc vụ viện Trung quốc.

Đó là những điều một nước có chủ quyền phải làm, dù đối với một nước được xem là anh em. Sư phản đối của Hà Nội có tính kịch bản, quá yếu mềm chẳng khác gì bắt gặp kẻ cướp vào nhà ăn cướp mà đứng ở cửa nhỏ nhẹ bảo “của tôi sao anh lấy” rồi để cho kẻ cướp mang của đi mà không dám gọi cảnh sát và hô hoán cho hàng xóm biết!

Hà Nội cấn cái gì mà không làm những việc thường tình một nước có chủ quyền phải làm khi đất đai của cha ông bị xâm lấn? Hay là đảng cộng sản Việt Nam đang cầm quyền đã bị chính quyền Trung quốc thao túng?

Nếu đúng vậy thì giặc đã vào nhà, sơn hà đang nguy biến. Đã đến lúc nhân dân vùng dậy lôi những kẻ phản bội ra trước tòa án nhân dân để cứu nước.

 

Trần Bình Nam

Dec 12, 2007

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

 

(1)   Xem tài liệu nguồn www.hku.hk/wa/conlawhk bằng Hoa ngữ do tác giả Trần Đông Đức dịch ra Việt ngữ đăng trên DCVOnline

 

 

 

 

 

 

 

  


Trần Bình Nam

http://www.tranbinhnam.com