Ðọc TÔI PHẢI SỐNG
của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Trần Bình 
            
Cuốn Tôi Phải Sống, hồi ký tù đày của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
vừa được ra mắt độc giả lần đầu tiên hôm Chủ nhật 
            Ở hải ngoại không thiếu hồi ký về tù đày. Nhưng
thiếu một cuốn hồi ký mà ngoài đói khát và khổ nhục trong nhà tù người ta tìm
thấy những suy tư nặng trĩu về đất nước và dân tộc. Cuốn
Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là cuốn sách đó. 
            Cuốn sách dày 650
trang cho chúng ta theo dõi bước chân của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ trong 13 năm từ
1976 cho đến năm 1989 qua các trại tù, như một phần của trang sử đầy nước mắt của
dân tộc Việt, từ trại giam 
            Khổ ải của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ giống như khổ ải được báo trước của
nàng Kiều trong Ðoạn Trường Tân Thanh. Kiều được báo
trước số phận mình trong buổi chơi Xuân gặp mộ Ðạm Tiên. Còn số phận ông
được định đoạt  khi
ông quyết định sống trước hết như một người Việt 
Sinh trưởng tại một làng quê trong đồng bằng sông Cửu Long ông lớn
lên chơn chất giữa cảnh sông nước và đồng ruộng bao la mà từ thời thơ ấu đã thấy
những xác người trôi sông báo hiệu một bầu trời ảm đạm sẽ phủ lên đất nước. Nỗi thống khổ của người dân Việt ông được chứng kiến đã là động cơ
thúc đẩy ông muốn trở thành linh mục. Làm linh mục để
sống với dân và phục vụ dân. 
Thọ phong linh mục năm 1970 ông phục vụ Giáo hội Công giáo được 5
năm thì miền Nam sụp đổ. Ðứng trước một chính quyền xây dựng
trên chủ thuyết không công nhận tôn giáo ông cương quyết chống trả. Ông
có thể chịu đựng nghịch cảnh và sự hành xách của cán bộ chính quyền tại họ đạo
La Mã trong huyện Giồng Trôm nơi ông được chuyển về phục vụ sau ngày 30 tháng 4
năm 1975 để sống qua ngày, nhưng mang truyền thống bất khuất ông đi theo con đường
của sĩ phu là con đường chống lại mọi bất công và đàn áp. Ông chọn thái độ: “không
chấp nhận bất công, đủ điều kiện thì chống, yếu thì chạy, bị bắt thì tìm cách
trốn.” Con đường định mệnh của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ từ năm 1975 cho đến năm
1989 khi ông vượt biên thành công qua đến Thái Lan là
con đường đó. Cái thái độ đó xác định số phận ba chìm bảy nổi của ông và giúp độc
giả hiểu hành động của tác giả khi toan tính các cuộc đánh thoát trên tàu Sông
Hương trên đường ra Bắc và toan tính vượt biên tại trại Cổng Trời năm 1977, cuộc
vượt ngục tại trại Thanh Cẩm tháng 5 năm 1979 và một cuộc vượt ngục khác không
thực hiện được năm 1982 cũng tại trại tù Thanh Cẩm. Một số người cho Linh mục
Nguyễn Hữu Lễ quá mạo hiểm và không cân nhắc kỷ các điều kiện thực tế trước khi
hành động nên thất bại, nhưng vấn đế đối với Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là vấn đề
nguyên tắc, trốn khỏi trại tù khi có thể trốn được như phương châm của
tù binh theo Hiệp ước Geneva về tù binh. Ông đã hành động theo
thúc bách của những gì ông đã cam kết với chính mình.
             Phút thử thách nhất của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
là cuối năm 1977 tại trại Nam Hà khi ban giám trại yêu cầu ông phát biểu trước
anh em tù về sự “yên tâm cải tạo”. Họ chọn một linh mục vì họ
biết nếu một linh mục đã đầu hàng thì mọi sự sẽ vào khuôn phép. Nhưng
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã phát biểu “không yên tâm cải tạo” với những lý
do hùng hồn không chối cãi được. Lời phát biểu của ông là cái án tử hình của ông. Họ quyết giết ông.
Họ đưa ông lên trại Cổng Trời để ông có lối về trời. Nhưng định mệnh lại cứu ông. Cuối năm 1978
Hồng quân Trung quốc sắp tràn qua biên giới họ phải đưa ông về trại Thanh Cẩm ở
Thanh Hóa. Và sau khi ông vượt ngục bất thành ở Thanh
Cẩm họ muốn đánh chết ông nhưng ông không chết và họ quyết giam ông tại trại kỷ
luật cho đến khi ông chết ông vẫn không chết. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ tự
hứa với mình: “tôi phải sống.”
            Nhưng qua những thử thách và đau thương cũng như đau đớn tận cùng đó
cái kết tinh lại nơi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ không phải là sự hận thù mà là lòng
tha thứ. Ông yêu thương thấy đất nước Việt 
            Linh mục Nguyễn
Hữu Lễ muốn nói chúng ta hãy suy nghĩ xa hơn cuộc chiến tranh quốc cộng mà
chúng ta là nạn nhân để trở lại yêu thương đất nước, yêu thương đồng bào.
Hãy bình tâm nhìn lại ưu điểm và khuyết điểm của dân tộc để
vượt thoát. Vượt thoát khỏi sự nghèo đói, chậm tiến và
sự khinh thường của cộng đồng thế giới đối với một dân tộc có đủ mọi điều kiện
về trí tuệ và thiên nhiên để được cộng đồng quốc tế kính nể. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã quyết sống để nói lên điều đó, một điều
ông thấy được từ cõi chết. 
            Trở lại tác phẩm. Một cuốn sách dày 650
trang không thể không có khuyết điểm. Cái khuyết điểm
chính là những điểm phụ không đóng góp gì cho giá trị của tác phẩm. Chuyện
tù nhân nguyên tướng cướp Bình Thanh Ðỗ Thanh Bình vốn tâm phục Linh mục Nguyễn
Hữu Lễ như một người anh đã đánh gãy hai hàm răng của một tù nhân khác vì đã
không làm đúng lễ tặng quà cho đàn anh cũng như việc định giết một tù nhân khác
vì vô lễ với tác giả mang đậm màu sắc tàn bạo, trơ trụi của cuộc sống trong tù
có thể có giá trị đối với một cuốn tiểu thuyết nào đó, trở thành lạc lõng trong
hồi ký mang nặng tư duy thời đại như cuốn Tôi Phải Sống.
            Hồi ký Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có một nét đặc
thù khác là văn chương. Văn phong ông truyền cảm mang đến
cho người đọc một bầu trời chữ nghĩa điêu luyện như đi giữa những từng mây dù đang
lê lết trong địa ngục trần gian. Ông sắp xếp diễn biến 13 năm tù đày
không theo thứ tự thời gian nhưng chập lên nhau, tuần tự để độc giả nhìn được
trọn bức tranh với một kỹ thuật khéo léo của một nhà văn, tuy trước tác phẩm
này tôi biết Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chưa viết một cuốn sách nào. Ðọc  cuốn Tôi Phải Sống tôi nhớ đến cuốn
“Chuyện kể năm 2000” trong nước của nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa in xong đầu năm
2000 chưa kịp xuất bản thì bị cấm. Cũng chuyện tù đày, cũng
cùng một kỹ thuật, cũng một thứ văn chương toàn bích. Cái
khác là “Chuyện kể năm 2000” dài hơn (1000 trang) và đã có người nghĩ đến việc
vận động đề nghị cuốn sách lên hội đồng xét giải văn chương Nobel. Cái trở ngại chính là Việt ngữ chưa phải là một ngôn ngữ có thế lực
trên thế giới. 
Và tình yêu? Cuốn Tôi
Phải Sống không thiếu tình yêu nam nữ. Nàng cán bộ tài vụ KT của trại
Nam Hà đã yêu người tù Nguyễn Hữu Lễ và người tù Nguyễn Hữu Lễ đã để cho quả tim mình rung động chăng? 
Một bức tranh quá đẹp tôi
không cuỡng lại được cái ý muốn chia xẻ với độc giả. Khung cảnh: trại Nam Hà. Người
tù Nguyễn Hữu Lễ được trả tự do, giấy tờ vừa xong với cô cán bộ tài vụ KT. Linh
mục Nguyễn Hữu Lễ thuật:
 “ ..... tôi khoác chiếc ba-lô nhẹ hẫng lên vai và bước ra khỏi phòng
tài vụ. KT xếp sổ sách giấy tờ trên bàn, đứng lên đi vòng ra phiá sau chiếc ghế
dài bằng gỗ nặng chắc chắn, buớc theo ra, tiễn chân
tôi. Chúng tôi đi song song bên nhau trong một hành lang
dài và hẹp dẫn ra phiá mặt tiền nhà nằm dọc theo đường cái. Chúng tôi yên lặng
bước đi, chẳng ai nói với ai câu gì, nhưng tôi có cảm tưởng chính sự thinh lặng
trong lúc này lại nói lên nhiều hơn. Tự nhiên tôi chợt nhận ra, người con gái đang
bước đi bên cạnh tôi lúc này không còn là người cán bộ tài vụ nữa, mà là người
thân thiết của tôi. Nàng đã trở thành một người phụ nữ bình thường như bao
nhiêu người phụ nữ khác với những xúc cảm tự nhiên trước lúc chia tay người thân và không còn hy vọng gặp lại.
Khi cả hai gần ra tới ngõ, tôi bất chợt dừng lại,
quay sang nhìn KT và bắt gặp đôi mắt màu đen đang mở thật to nhìn tôi, hai hàng
mi dài và cong. Nàng đang chớp mắt để che giấu sự xúc động. Tôi  nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhanh mấy
câu giã từ:
- Thôi giã biệt KT! Chúc cô và gia đình ở lại gặp nhiều may mắn. Xin cám ơn sự lo lắng và giúp đỡ của cô trong thời gian qua.
- Anh Lễ! Ðừng nói những lời cám ơn! ...... Vừa nói, nàng vừa tiến lại
sát bên tôi trong một cung cách rất tự nhiên của một người em gái trong lúc
tiễn biệt người anh. Tôi nắm lấy và bóp nhẹ bàn tay bé
nhỏ có các ngón thon dài của KT. Nàng để yên bàn tay trong tay tôi. Tôi nghe tay nàng nóng, đang run nhẹ.... Mắt nàng ướt long lanh, chớp
thật nhanh nhìn tôi ........ Giọng nàng nhẹ như trong
hơi thở:
- Anh đi bình yên.
            Tôi buông tay nàng ra. .......... xốc lại chiếc
ba-lô trên vai và bước vội mấy bậc tam cấp lên đường cái ......”  
            Ðọc Tôi Phải Sống
của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ tôi cảm thấy được cái chất thật của con người nói chung và con người Việt 
            Qua đau khổ cùng cực của bản thân mình ông kêu gọi một sự vượt
thoát cho tương lai của đất nước và dân tộc. Ðó là
thông điệp của Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ.
Trần
Bình 
| Trần Bình  | http://www.vnet.org/tbn |