Tôn
Giáo và Đất Nước
Trần Bình 
Bài khảo luận này tôi không
viết cho những người chủ trương kỳ thị tôn giáo. Tôi cũng không viết cho những người cho tôn
giáo là trên hết.
Tôi viết bài khảo luận này cho những người có niềm tin tôn giáo và
cũng tin vào sự quan trọng của quốc gia dân tộc như một cộng đồng được tổ chức
chặt chẽ và sống với nhau không phân biệt tín ngưỡng của nhau. 
Cái cần thiết nhất của nước Việt 
Chính sách đó là chính sách
nào? Vấn đề
đặt ra là một vấn đề rộng lớn đòi hỏi một sự nghiên cứu dài ngày và nghiêm chỉnh.
Bài viết này không có tham vọng đó. Nó
chỉ là những ý kiến tản mạn gợi ý để cùng nhau chúng ta có cơ hội nghĩ đến vấn
đề quan trọng này mà thôi. 
**
Trước thế kỷ thứ 18 tôn giáo được xem là thống soái, là sức mạnh
chỉ đạo đời sống của con người. Nhưng từ thời đại Enlightenment
(gọi là Thời đại của Lý trí – Age of Reason) xuất hiện tại Pháp trong thế kỷ thứ
18 dưới ảnh hưởng của một số nhà tư tưởng như Charles de Montesquieu
(1689-1755) và Arouet de Voltaire (1694-1778) sau đó lan ra toàn cỏi Âu châu và
Mỹ châu thì lý trí được đặt lên hàng đầu và vấn đề trách nhiệm của vua chúa đối
với dân được đặt ra, đồng thời tinh thần bao dung tôn giáo được triển khai thì tôn
giáo lùi bước dần trong sinh hoạt quốc gia. Từ đó quan niệm
thần quyền (Tôn giáo) và quyền thế tục (Nhà nước) được tách nhau ra trở thành một
nguyên tắc tổ chức chính quyền, nhất là tại Hoa Kỳ. 
Quan niệm này
được mặc nhiên chấp nhận trong gần suốt thế kỷ thứ 20 do sự  bận rộn của thế giới với hai trận Thế
giới đại chiến và sự xuất hiện của chính quyền Liên bang Xô viết dựa trên thuyết
Mác xít chủ trương kỳ thị mọi thứ tôn giáo và sau đó là trận chiến tranh lạnh kéo
dài từ năm 1945 đến năm 1990.
Sau khi chiến
tranh lạnh chấm dứt, căng thẳng giữa tôn giáo với nhà  nước (như ở Hoa Kỳ), và giữa các tôn giáo
với nhau bắt đầu xuất hiện. Quan trọng nhất là giữa Hồi giáo với Thiên chúa giáo
(tại nhiều nơi trên thế giới như Trung đông, Nam Tư, Phi luật Tân …), nhỏ hơn là
giữa Hồi giáo và Ấn Độ giáo (tại Ấn độ), giữa Công giáo La mã và Tin Lành (tại
Bắc Ái Nhĩ Lan), giữa Hồi giáo và Phật giáo (tại nam Thái Lan). Và sau cuộc khủng
bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 do tổ chức al Quada của người Hồi giáo đánh Hoa Kỳ thế
giới mở màn cuộc chiến tranh chống khủng bố mà bản chất là một cuộc thánh chiến
(mặc dù không ai nhìn nhận như vậy), và vấn đề tôn giáo và nhà nước lại trở thành
một vấn đề thời thượng.
Theo tiến sĩ
Harvey Cox, giáo sư đại học Harvard Divinity School trả lời một phỏng vấn mới đây
của tạp chí Foreign Policy (1) thì tôn giáo đang mất dần ảnh hưởng đối
với đời sống xã hội. Điều này nếu đúng tại Âu châu, Liên bang Nga, Trung quốc,
sẽ không đúng tại Hoa Kỳ, Trung đông và Việt 
Nước Việt
Nam trong tương lai, sau khi khi chế độ cộng sản tàn tạ nhường chỗ cho một chính
quyền thật sự của dân, người lãnh đạo sẽ phải đối đầu với vấn đề Tôn giáo và Nhà
nước hay Tôn giáo và Dân Tộc, và một chính sách tôn giáo đúng đắn sẽ là con đường
sống còn hay thất bại của Việt Nam trong tương lai.
Hãy xem kinh
nghiệm của Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ cái ý niệm “tách biệt Tôn giáo và Nhà nước” là một
ý niệm quy định bởi tu chỉnh số 1 của Hiến pháp. Nhưng có nhiều
người không đồng ý như vậy. Họ lập luận rằng tu chính Hiến
pháp số 1 không ghi trên giấy trắng mực đen “Tôn
giáo và Nhà nước phải được tách biệt”. Tu chính số 1 viết: “Quốc hội không được thông qua luật công
nhận một tôn giáo nào, cũng như không được cấm một tôn giáo nào sinh hoạt, và
không được hạn chế 
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền hội họp và
quyền yêu cầu Nhà nước giải quyết các sự than phiền của dân.” (Congress
shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the
feee exercie thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or
the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government
for a redress of grievances.)
Và những người
chủ trương tôn giáo có quyền bàn chuyện nhà nước giải thích rằng tu chính số 1
nhắm hai mục đích: thứ nhất tránh sự thiết lập một quốc giáo, thứ hai bảo vệ tự
do tín ngưỡng và không nói gì đến sự cần thiết phải có một bức tường ngăn cách
giữa tôn giáo và nhà nước. Viện dẫn lịch sử, những người chủ trương tôn giáo
trên hết nói rằng hành động đầu tiên của quốc hội Hoa Kỳ là cho phép in 20,000
bản Thánh Kinh để phân phát cho người da đỏ, và tổng thống George Washington đã
công bố một ngày cám ơn Chúa (Thanksgiving). Và để chứng minh nguồn gốc của Hoa
Kỳ lấy tư tưởng Thiên Chúa giáo làm tư tưởng chủ đạo bằng cách nêu ra rằng vào
năm 1789 khi 11 bang trong 13 tiểu bang đầu tiên phê chuẩn bảng Hiến pháp liên
bang thì trong Hiến pháp của đa số các tiểu bang còn đòi hỏi viên chức chính
quyền phải là người theo đạo Thiên chúa (Công giáo La Mã hay tin Lành).
Lập luận của
những người chủ trương Thiên chúa giáo là thống soái không phải không có căn
bản, và không ai có thể chối bỏ ảnh hưởng của tôn giáo đến sinh hoạt của con người
và cơ cấu xã hội trong đó có những định chế chính trị. Trên
thực tế, cuộc tranh chấp giữa tôn giáo và chính trị là một cuộc tranh chấp chưa
lúc nào chấm dứt. Theo trào lưu tư tưởng và nhu cầu an ninh của thế giới
khi ý niệm này thắng, khi ý niệm kia thắng nhưng cuộc
tranh giành vẫn âm ỷ như một hỏa diệm sơn. Và sự ổn định của thế giới tương lai
tùy vào sự hiểu biết của con người đối với tôn giáo, và vấn đề nghiên cứu và
tìm hiểu “tôn giáo là gì” trở thành một nhu cầu trí tuệ cần thiết. 
Nhu cầu lịch
sử này không giới hạn ở việc nghiên cứu tôn giáo này, tôn giáo khác phát sinh
và truyền bá ra sao, ai là giáo chủ và giáo chủ đã dạy những gì mà chính yếu là
tìm hiểu lịch sử của sự phát triển các tôn giáo, và  đời sống con người đã được biến cải như
thế nào bởi tôn giáo. Sự nghiên cứu này đòi hỏi sư tham gia của các ngành học
như khảo cổ, triết học, phê bình văn học, tâm lý học, xã hội học, nhân loại học
… để phát hiện ra những định luật (nếu có) của tôn giáo trong đời sống con
người (cũng như nhà xã hội học tìm cách phát hiện các định luật xã hội về con
người như một sinh vật.)
Thế kỷ thứ
19 bắt đầu đi vào công cuộc nghiên cứu này, nhưng các nhà nghiên cứu khó đồng ý
với nhau về đường hướng nghiên cứu cũng như về kết luận của công cuộc tìm tòi
vì đụng chạm với các nguyên tắc tín ngưỡng của tôn giáo.
Bước vào thế
kỷ 20, do sự tiến bộ của khoa học, con người hiểu biết về trời đất và vũ trụ
quanh mình hơn, những tin tưởng siêu hình của tôn giáo trở thành những ý niệm
thuần túy tôn giáo và xem như thứ yếu trong cuộc sống vật chất của con người.
Do đó quyền lực của các giáo hội trở thành thứ yếu. Lấy thí dụ sự phát hiện về
sự tiến hoá của sự sống của Charles Darwin (1809-1882) một nhà sinh vật học người
Anh trong thế kỷ thứ 19 có một sức hấp dẫn đến nổi người ta xem thuyết tạo sinh
trời đất bởi một đấng vô hình chỉ còn là một chuyện hoang đường, và các khám
phá khoa học khác của thế kỷ thứ 19 cho thấy vũ trụ tự nó tác động và điều hành
theo những nguyên tắc có thể giải thích được chứ không do một quyền lực siêu
nhiên nào sắp đặt.
Nếu các nhà
chính trị Hoa Kỳ đã diễn giảng tu chính Hiến pháp số 1 như là một nguyên tắc
tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà nước một cách dứt khoát có lẽ do ảnh hưởng của
sự hiểu biết của con người, và do những hậu quả trầm trọng của nhiều thế kỷ trước
để lại, trong đó những cuộc Thánh chiến là một. Tám trận Thánh Chiến tại Âu
châu và Á châu kéo dài gần 200 năm (từ năm 1096 đến năm1291) giữa tín đồ đạo
Công giáo thuộc hai hệ phái La Mã và Constantinople với tín dồ Hồi giáo để
giành quyền làm chủ thành phố Jerusalem đã mang lại quá nhiều tang tóc cho Âu
châu và Trung đông.
Nhưng sự tranh chấp giữa giáo quyền và nhà nước không ngừng ở
đó. Trong
45 năm chiến tranh lạnh giáo quyền tại Liên bang Xô Viết bị đàn áp, giáo quyền
trong khối tự do không có tư thế tranh chấp với nhà nước thì sau khi chiến
tranh lạnh chấm dứt, các sự rối loạn trên thế giới mà nguyên nhân là chủng tộc
và tôn giáo bắt đầu xuất hiện: Hồi giáo tại Trung đông và Á châu (Indonesia, Thái
Lan, Phi Luật Tân), Ấn độ giáo tại Ấn độ và Thiên chúa giáo (công giáo La Mã và
Tin Lành) tại Hoa Kỳ. Hồi giáo muốn nắm quyền chính trị để tập trung lực lượng
tranh chấp với Thiên chúa giáo. Thiên chúa giáo muốn có tiếng nói mạnh hơn tại
Hoa Kỳ để ngăn chận làn sóng quá khích của Hồi giáo, và một phần khác tái lập
những quan niệm đạo lý mà họ cho là đang bị xâm phạm. 
Tiếng nói của tôn giáo trở nên mạnh mẽ và có trọng lượng tại Hoa
Kỳ sau cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sự đắc cử nhiệm kỳ 2 của tổng
thống Bush năm 2004 và sự thắng lợi của đảng Cộng hòa kiểm soát cả hai viện quốc
hội là một bằng chứng. Từ đó những biểu hiện có tính cách tôn
giáo bắt đầu xuất hiện trong đời sống nhân dân. 
Quốc hội và
tổng thống đã  nhúng
tay vào chuyện tiểu bang trong vụ Terri Schiavo tại Florida, tin tưởng rằng họ được
giao phó một nhiệm vụ thiêng liêng (2).Tổng thống Bush cũng dùng sứ
mệnh của cử tri giao phó tái bổ nhiệm các chánh án liên bang cực kỳ bảo thủ trước
kia đã được Thượng viện tạm gát việc phê chuẩn. Tổng thống Bush cũng đang dùng
quyền tổng thống bổ nhiệm các chánh án Tối Cao Pháp Viện
cực hữu thay thế hai ghế trống của bà Sandra Day O’Connor từ chức và ông chủ tịch
William Rehnquist vừa mới qua đời. Việc chánh án John Roberts thay thế ông Rehnquist
không thành một vấn đề vì chủ trương và quan niệm của hai quan tòa này như
nhau, nhưng nếu bà O’Connor, vốn là một chánh án trung dung, được thay thế bằng
một quan tòa bảo thủ thì không ai có thể đoán được trong nhiều thập niên tới đời
sống xã hội tại Hoa Kỳ sẽ được thay đổi như thế nào. Trước hết là án lệnh Roe
vs. Wade (tháng Giêng năm 1973) có thể bị Tòa Án Tối Cao hủy bỏ và người phụ nữ
Hoa Kỳ sẽ bị cấm phá thai trong mọi trường hợp. Việc này sẽ là
một vấn đề tạo bất ổn trong xã hội. Hiến Pháp Hoa Kỳ quy định ba quyền Hành
Pháp, Lập Pháp Tư Pháp kiểm soát lẫn nhau, nhưng sự kiểm soát tòa án chấm dứt
sau khi Thượng viện phê chuẩn sự bổ nhiệm của tổng thống. Quan
tòa có nhiệm kỳ không hạn định và họ có một quyền hành khá rộng rãi trong việc
chọn lựa phán quyết. Nếu Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu, Tổng Thống đến rồi đi
và mỗi hành động đều được cử tri xem lại sau hai năm (với dân biểu), bốn năm (với
tổng thống và thống đốc), hay sáu năm (với Thượng nghị sĩ) khi ra tranh cử lại,
các quan tòa cứ ngồi đó để in dấu ấn của tư tưởng mình và chỉ có trách nhiệm với
chính mình lên đời sống của nhân dân.
Hiện nay tại
Hoa Kỳ tôn giáo không dừng ở ngưỡng cửa Tối cao Pháp viện, tôn giáo đang lần bước
sang lĩnh vực khoa học. Thuyết tiến hóa
(evolution) của Darwin từ trước đến nay được xem có giá trị khoa học và làm căn
bản giải thích sự tiến hóa của sinh vật và được chấp nhận như một kiến thức
khoa học dùng tại các trường trung tiểu học ở Hoa Kỳ đang bị các Ủy ban lo việc
giáo dục (Education Boards) ít nhất tại 20 trên 50 tiểu bang đang đặt thành vấn
đề. Họ muốn học sinh được học cả hai thuyết, thuyết tiến hóa của 
Tuy nhiên điều
cần để ý là chức quyền các giáo hội không trực diện tấn công khoa học mà chỉ đặt
thành vấn đề nghi vấn, và cũng chỉ giới hạn ở cấp giáo dục trung tiểu học mà không
đụng chạm đến nền giáo dục đại học mà họ biết là căn bản của sự tiến bộ xã hội.
Và do đó họ tìm cách thích ứng thuyết tiến hóa với thuyết tạo sinh hay ít nhất đặt
thuyết tạo sinh ngang hàng với thuyết tiến hóa. 
Trong lịch sử
tiến bộ khoa học các nhà khoa học tìm tòi và phát minh cốt để thỏa  tính tò mò và để
chế ngự môi  trường sống chứ không có mục
đích chống tôn giáo. Chúng ta có thể kể vài nhà khoa học như nhà thiên văn Đan
Mạch Nicolas Copernic (1473-1543) đưa ra lý thuyết rằng mặt trời chứ không phải
quả đất là trung tâm của một hệ thống các thiên thể gọi là hành tinh họp thành Thái
dương hệ, mà quả đất chỉ là một hành tinh; ông Gallilée người Ý (1564-1642) nhờ
sự phát minh kính thiên văn của nhà khoa học Hans Lippershey (1570-1619) người
Hòa Lan chứng minh được lý thuyết của ông Copernic là đúng, và Charles Darwin với
thuyết tiến hoá.
Cuộc đấu
tranh giữa tôn giáo và nhà nước với giới hạn như vậy có thể sẽ không ảnh hưởng đến
sự tiến bộ của khoa học nhưng sẽ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của dân chúng
Hoa Kỳ, và điều quan trọng là ảnh hưởng đến tình hình chung trên thế giới.
Trận chiến
tranh lạnh kéo dài 55 năm trong đó tôn giáo không có tiếng nói mạnh mẽ bên kia cũng như bên này bức màn sắt. Nhưng mâu thuẫn của thế giới
chúng ta sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt là sức mạnh của tôn giáo xuất hiện và
dưới hình thức của Hồi giáo quá khích chống lại văn minh Thiên chúa giáo đang là
mầm mống của một hình thức thánh chiến của thời đại mới. Thế giới Tây phương đã
quy trách vai trò của Hồi giáo trong sự bất ổn của thế giới hôm nay, nhưng đồng
thời hiện tượng tôn giáo trở thành thống soái cũng đang được nẩy nở trong thế
giới Tây phương (ít nhất là tại Hoa Kỳ đang trở thành trung tâm của Tây phương)
và làm cho cuộc tranh chấp Hồi giáo-Tây phương trở thành đậm nét và đe dọa nền
hòa bình thế giới.
Vấn đề tôn giáo và đất nước đối Việt nam sẽ như thế nào? Tôn giáo
sẽ đóng vai trò gì đối với đất nước Việt 
Đây sẽ là một vấn đề tối quan trọng cho bất cứ đảng phái chính
trị nào nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Dưới thời Pháp thuộc, người
dân Việt 
Chế độ mới trên nguyên tắc chủ trương không chấp nhận tôn giáo
nhưng không giải quyết được những vấn đề tôn giáo dù bằng chính sách độc tài. Mâu thuẩn với Công giáo, mâu
thuẩn với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và gần đây mâu thuẫn với tín đồ
Tin Lành trên cao nguyên Trung việt mà tín đồ đa số là người thiểu số đã là những
vấn đề có tầm vóc quốc gia làm xáo trộn đời sống kinh tế và chính trị của Việt
Nam. 
Không ai nuôi hy vọng vấn đề tôn giáo sẽ được giải quyết bởi chế
độ này vì chính sách của họ là chính sách cố hữu của mọi đảng cộng sản. Họ không
chấp nhận một đoàn thể nào có quần chúng và có tính tổ chức tối hậu dẫn đến sự
tranh chấp quyền hành chính trị với đảng cộng sản. Tuy
nhiên dưới áp lực của đổi mới và mở cửa thị trường chính quyền mới đã có một chính
sách dễ dãi hơn đối với tôn giáo. Các tôn giáo được tự do truyền đạo ở  một mức độ nào đó.
Với không khí hiện nay nếu các vị lãnh đạo tôn giáo thành công duy trì được những
tin tưởng căn bản của tôn giáo như bác ái của Thiên chúa giáo và từ bi cũng như
tinh thần dân chủ của Phật giáo thì quần chúng sẽ không mất cái căn bản xây dựng
quốc gia khi cơ hội tới. Nếu hướng cái năng lực hiện nay vào
việc gieo giống cho ngày mai thì đó cũng là một cách để dành vốn liếng cho dân
tộc. Giữ tín ngưỡng để duy trì niềm tin vào tương lai có
thể là một chương trình giáo dục lớn nhất của các giáo hội tôn giáo hiện nay tại
Việt 
Còn tương lai? Nếu Ông Minxin Pei, thành viên của Carnegie Endowment for International Peace và giám đốc Chương trình Trung quốc tiên đoán đúng (1)
 thì đảng cộng sản Trung quốc – và đảng
cộng sản Việt Nam như một hệ luận - sẽ không còn tồn tại trong vài chục năm nữa.
Và trong khung cảnh dân chủ và đa nguyên Việt 
Sự thành công và tương lai của Việt 
Nửa thế kỷ qua các nước Á châu chuyển mình một cách nhanh chóng. Nước Nhật thua trận Thế
giới chiến tranh II đã trở thành một lực lượng kinh tế lớn thứ nhì thế giới, chỉ
đứng sau kinh tế Hoa Kỳ. Các nước Á châu khác như Nam Hàn, Ðài Loan, Singapore,
Thái Lan đều trở thành những con rồng nhỏ. 
Trong khi đó nước Việt 
Lịch sử chứng tỏ Việt 
Sau tháng
4/1975 một số người Việt phải bỏ nước ra đi để tránh nạn kỳ thị, và chưa qua
một thế hệ đã ổn định nhanh chóng ở môi trường mới và thành công nhanh chóng
trong mọi lĩnh vực, nhất là các ngành khoa học, kỹ thuật và y khoa. Ðiều này chứng tỏ người Việt có một khả năng trí tuệ không kém các
dân tộc được ưu đãi khác.
Ðó là con
người. Về tài nguyên, nước Việt Nam không thiếu. Ngoài
hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long phì nhiêu, chúng ta còn có dầu hỏa
trong vùng Trường Sa đang được khai thác.
Thế mà trên một đất nước
như vậy, với những con người như vậy, hôm nay, trong thời đại tin học này, 80
triệu dân Việt vẫn còn sống trong chậm tiến, và càng ngày càng tụt hậu trước sự
tiến bộ nhanh chóng của các nước khác trên thế giới. 
Vậy: Người
Việt 
Và chìa khóa giải quyết vấn đề có thể nằm trong chính sách giáo
dục và tôn giáo. 
Trong chính
sách tôn giáo câu hỏi thường đặt ra là: tôn giáo trước hay dân tộc trước. Nếu chữ tôn giáo trong câu hỏi có nghĩa là một tổ chức có giáo quyền,
có người lãnh đạo, có hệ thống có giai cấp thống thuộc thì cần có một câu trả lời
dứt khoát. Nhưng nếu tôn giáo được hiểu là một cái gì
thuộc tâm linh thì câu hỏi không cần đặt ra. Đời sống xã hội rất cần tôn
giáo với những đức tin khác nhau và sống hài hòa với nhau.Quốc gia cần một chính
sách trân trọng tôn giáo, quý trọng tâm linh được phản ánh trong hiến pháp,
trong luật lệ và trong tinh thần của những người lãnh đạo quốc gia. Trong một nước Việt 
Hiện nay trên thế giới vẫn còn tinh thần thánh chiến (crusade) nghĩa là tôn giáo này dùng sức mạnh để lấn áp
tôn giáo khác. Ngoài tranh chấp rộng lớn giữa Thiên chúa giáo và Hồi giáo còn
có những cuộc tranh chấp giữa người theo Công giáo và Tin Lành tại Bắc Ái nhĩ
Lan, giữa người Hồi giáo Shiite với người Hồi giáo Sunni ở Iraq, giữa người Hồi
giáo và Phật giáo tại Nam Thái Lan, giữa Hồi giáo và Ấn độ giáo tại Ấn độ, giữa
Hồi giáo Wahhabism (4) với cả thế giới … Và trong một nước từng có
chính sách không công bình về tôn giáo như Việt Nam, một sự sai lầm nhỏ về chính
sách tôn giáo có thể khơi lại vết thương cũ. Vì vậy người lãnh
đạo chính trị tương lai cần hết sức thận trọng, có một chính sách hoàn chỉnh về
tôn giáo và dân tộc để tôn giáo không ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế, đối
ngoại và đối nội của quốc gia. Điều này đòi hỏi áp lực
của người dân chẳng những đối với những nhà lãnh đạo chính trị mà còn đối với các
nhà lãnh đạo tôn giáo. Và điều này chỉ có thể làm được
với một dân trí cao được chuẩn bị bởi một nền giáo dục phóng khoáng, khoa học và
đượm nhân tính. 
Nội dung của
giáo dục cần quan tâm đặc biệt đến giới trẻ. Người làm chính sách cần làm cho
giới trẻ hiểu rằng trách nhiệm đối với đất nước không phải chỉ ở trong tay của những người lớn tuổi, và cái phong tục trọng người
cao niên không có nghĩa chỉ có người cao niên mới có đủ tài đức nắm vận mệnh quốc
gia. Điều này đặc biệt cần nhấn mạnh đối với Việt Nam vì Việt Nam có một thói
quen gần như thành truyền thống xem người trẻ chỉ nên “dựa cột mà nghe” do ảnh hưởng của Khổng giáo và của văn hóa Pháp (5)
và nhất là bởi chế độ cộng sản mà như một thông lệ người cầm quyền bám
quyền cho đến chết. 
Tóm lại tương
lai của Việt Nam ở trong tay một chế độ dân chủ, một dân trí cao do một nền giáo
dục khai phóng, một ý thức trọng hiền tài với tinh thần hậu sinh khả úy, một văn hóa khoan dung, và trên hết là một chính sách
tôn giáo đặt trên nền tảng: “tín ngưỡng
của mỗi chúng ta – đất nước chung của chúng ta”. 
Năng lực tiềm tàng của Việt 
Trần Bình 
(1) Foreign Policy số tháng 9 & 10/2005, hay www.tranbinhnam.com, mục Bình Luận, tài
liệu 176
(2) xem www.tranbinhnam.com , mục Bình Luận, tài
liệu số 147
(3) xem www.tranbinhnam.com , mục Bình Luận, tài
liệu số 42
(4) một giáo phái  của học
giả Muhammand din Abd al-Wahhab sống ở thế kỷ thứ 18 chủ trương chấn hưng tinh
thần của Hồi giáo đang xuống dốc vào thời đó.
(5) văn
hóa Pháp tiền bán thế kỷ thứ 20 vào thời đại ảnh hưởng đến Việt Nam nhất cũng
là một văn hóa xem rằng chỉ có người lớn tuổi mới biết cầm quyền. 
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |