Toan Tính của Đảng Cộng Sản Việt Nam

trong việc ký Thỏa Ước

Bình Thường Hóa Quan Hệ Mậu Dịch Việt Mỹ

                        Trần Bình Nam

Từ tháng Sáu (6/2000), sau khi Hạ nghị viện Hoa Kỳ phê chuẩn thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu dịch với Trung quốc, các chuyển động liên quan đến bản thỏa ước  quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (gọi tắt là Thỏa Ước) bỗng nhiên được hâm nóng và cao điểm là chuyến công du của ông Vũ Khoan bộ trưởng ngoại thương của Việt Nam đến Hoa Kỳ đầu tháng 7/2000. Sau hơn một tuần lễ làm việc với bà Charlene Barshefsky, đại diện ngoại thương Hoa Kỳ, ngày 13/7/2000 hai bên Mỹ Việt ký bản Thỏa Ước tại Hoa Thịnh Đốn. Bản Thỏa Ước có hiệu lực thi hành sau khi được hai quốc hội phê chuẩn. Bản Thỏa Ước này đã được hai phía Việt Mỹ thương thuyết trong gần 4 năm tại Hà Nội và đáng ra đã được ký kết vào tháng 9/1999 tại Tân Tây Lan nhưng phút chót Việt Nam không chịu ký.

Bản Thỏa Ước được ký trên hai bản văn chính thức, một bằng Việt Ngữ, một bằng Anh Ngữ có giá trị như nhau, gồm 7 Chương và 72 Điều. Chương I nói về Mậu Dịch Hàng Hóa (Trade in Goods)  có 9 điều và 46 trang phụ bản liệt kê thuế quan mới, phẩm vật, hàng hóa và thời gian hoãn áp dụng trước khi các công ti Hoa Kỳ được nhập cảng và bán buôn các phẩm vật và hàng hóa này ở thị trường Việt Nam. Chương II nói về Tác Quyền (Intellectual Property Righs) gồm 18 điều; chương III nói về Dịch Vụ (Trade in Services)  gồm 11 điều; chương IV nói về sự Triển Khai Đầu Tư (Development of Investment Relations) gồm 15 điều; chương V nói về sự Tạo Điều Kiện Phát Triển Sự Làm Ăn (Business Facilitation) gồm 3 điều; chương VI  nói về tính Công Khai Minh Bạch và Quyền Khiếu Nại (Transparency-Related Provisions and Right to Appeal) gồm 8 điều, và sau cùng chương VII là chương Tổng Quan (General Articles) gồm 8 điều. Bản văn Anh ngữ dài 121 trang, và hình như nội dung của các bản liệt kê và thời gian hoãn thi hành là trọng điểm của các cuộc thương thuyết Việt Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn vì Việt Nam muốn mua thời gian để cứu vãn các cơ sở quốc doanh. Cơ sở quốc doanh là nền tảng của chế độ và quyền hành của đảng Cộng sản Việt Nam.

 Cái gì đã làm cho đảng Cộng sản Việt Nam không chịu ký Thoả Ước vào tháng 9/1999 trong một buổi lễ long trọng hơn với tổng thống Clinton tại Tân Tây Lan, gần một  năm sau lại ký trong một buỗi lễ tổ chức vội vàng tại Hoa Thịnh Đốn khi tổng thống Clinton đang bận rộn với cuộc thương thuyết quan trọng Trung Đông và chuẩn bị lên đường đi Nhật Bản tham dự hội nghị thường niên G-8 của 8 nước kỹ nghệ hàng đầu?

Lý do trước mắt là Việt Nam yên tâm vì đã đòi kéo dài được thời điểm áp dụng ở mặt nào cần thiết để các cơ sở quốc doanh có thì giờ thích ứng, lý do thứ  hai là lần này chính phủ Hoa Kỳ rút kinh nghiệm lần trước đã tránh tuyên bố những điều chạm tự ái Việt Nam. Nhưng đó chỉ là những lý do phụ. Theo nhận xét của phóng viên Steve Kirby viết cho hãng thông tấn AFP dù có thay đổi chút  ít bản văn vừa ký chẳng khác gì bản văn đã được hai bên đồng ý năm trước. Lý do chính theo ông Kirby là đảng Cộng sản Việt Nam đang cần một cái gì trước đại hội đảng dự trù tổ chức vào tháng 3 năm 2001. Đảng họp có gì để nói khi kinh tế đang xuống dốc và đầu tư nước ngoài đang bỏ chạy?

Nhưng lý do quan trọng nhất có lẽ là Việt Nam ít e dè về hậu quả của việc ký Thỏa Ước đối với quyền hành của đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam biết mở rộng mậu dịch với Hoa Kỳ là con đường để phát triển kinh tế Việt Nam ít bấp bênh nhất nên đã mở các cuộc thương thuyết nhiều năm trước. Nhưng khi bản văn thành hình họ đâm lo vì đây là vùng đất bí hiểm chưa có nước cộng sản nào khám phá,  nhất là trước dư luận bất lợi và đáng bực mình của giới chính trị gia Mỹ là nay đảng Cộng sản Việt Nam phải quỳ gối ký kết, và đã đầu hàng trước sức ép của dân chủ. Bản văn tương tự giữa Trung quốc và Hoa Kỳ lúc đó chưa được quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn. Nhưng sau khi Hạ nghị viện Hoa Kỳ phê chuẩn thỏa ước bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Trung quốc và Hoa Kỳ đảng Cộng sản Việt Nam giảm được mối lo. Vùng đất bí hiểm nhiều bất trắc đã có người bạn lớn cùng hoàn cảnh đặt chân vào. Đảng Cộng sản Việt Nam biết đảng Cộng sản Trung quốc không hề có chương trình từ bỏ quyền hành tuyệt đối để dân chủ hóa Trung quốc nên nếu Trung quốc ký thì không có lý do gì để đảng Cộng sản Việt Nam phải ngại ngùng. Và ký sau đàn anh Trung quốc một chút cũng có lợi về mặt ngoại giao. Việc ký kết Thỏa Ước với Hoa Kỳ ngoài mặt giao thương là một hành động thắt chặt quan hệ giữa Việt và Mỹ, một điều làm Trung quốc khó chịu. Đại sứ Peterson từng tuyên bố rằng bản Thỏa Ứớc bình thường hóa quan hệ mậu dịch giữa Hoa kỳ và Việt Nam nếu ký được sẽ đặt căn bản cho quan hệ lâu dài giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ít nhất trong 50 năm tới. Lời mở dầu bản Thỏa Ước ghi rằng: "Việt Nam và Hoa Kỳ công nhận rằng quan hệ kinh tế, mậu dịch và bảo vệ quyền sáng tạo rất quan trọng trong việc thắt chặt quan hệ chiến lược giữa hai nước."

Vấn đề phê chuẩn bản Thỏa Ước bởi hai quốc hội Hoa Kỳ và Việt Nam là một vấn đề phụ. Việt Nam không có vấn đề. Hoa Kỳ thì dù trước hay sau cuộc bầu cử  tháng 11 sắp tới quốc hội Hoa Kỳ cũng sẽ thông qua. Mậu dịch với Việt Nam là một vấn đề hai đảng Dân chủ và Cộâng Hòa ít bất đồng ý kiến với nhau.

Bản Thỏa Ước vừa ký là một bước khởi đầu tốt để Việt Nam hội nhập vào sinh hoạt dân chủ quốc tế. Nhưng không có chỉ dẫn gì cho thấy đảng Cộng sản Việt Nam định tâm như vậy. Trái lại mọi chỉ dẫn cho thấy đảng Cộng sản Việt Nam tính dùng bản Thỏa Ước để thoát hiểm, nghĩa là vừa phát triển kinh tế vừa duy trì quyền lãnh đạo tối thượng của đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ vi phạm Thỏa Ước như họ đã làm với Hiệp Định Paris 27 năm trước?  Không thể được. Đảng Cộng sản Việt Nam có thể vi phạm Hiệp Định Paris vì năm 1973 Hoa Kỳ ký Hiệp Định để rút ra. Lúc này Hoa Kỳ ký Thỏa Ước để nhảy vào. Hoa Kỳ sẽ làm mọi cách trong khả năng để ngăn không cho đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm, và cộng đồng thế giới sẽ đứng về phía Hoa Kỳ trong nỗ lực này, không như năm 1973 cộng đồng thế giới ngoảnh mặt lại với Hoa Kỳ. Chương VI về sự  Công Khai và Minh Bạch và Quyền Khiếu Nại của Thỏa Ước nhằm mục đích này.

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thi hành Thỏa Ước theo mô thức của Trung quốc để khai thác cái lợi tối đa, ít nhất là khai thác thị trường rộng lớn và thuế quan thấp của Hoa Kỳ trong khi mua thời gian củng cố cơ sở quốc doanh. Nếu được Đảng tiếp tục cầm quyền. Trái lại nếu cảm thấy áp lực của Thỏa Ước đe dọa ngiêm trọng quyền lãnh đạo của đảng, đảng Cộng sản Việt Nam có thể rút ra khỏi Thỏa Ước. Điều khoản cuối cùng của Chương Tổng Quan qui định rằng mỗi thời kỳ áp dụng Thỏa Ước là 3 năm. Mỗi bên có 30 ngày trước khi hết một thời kỳ để thông báo bên kia ý định rút ra khỏi Thỏa Ước. Thời kỳ 3 năm đầu tiên bắt đầu ngay sau khi hai nước phê chuẩn Thỏa Ước.

Đó có thể là tính toán của đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn nạn là,  khi Thỏa Ước đã được thi hành cũng như một chiếc máy bay đã cất cánh. Nếu gặp trục trặc máy móc không phải khi nào cũng có thể đáp xuống an toàn.

Nhưng đó là chuyện hạ hồi phân giải. (July 2000)


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn