TRUNG QUỐC THẤM MỆT
Trần Bình Nam
 
Lời nói đầu: Tạp chí The Economist số ngày June 15th
– 21st 2002 ở Luân Đôn vừa làm một khảo cứu đặc biệt về Trung quốc nhan đề
“Trung quốc thấm mệt” (China: Out of Puff) gồm 7 tiểu mục. Trước hết là nghiên
cứu sự thay đổi lãnh đạo sắp tới tại Trung quốc  (Color me gray). Các tiểu mục sau đó gồm: mầm mống cách mạng xã
hội (Seeds of change); kinh tế tài chánh hỗn độn (Money worries); bức tranh
nông thôn (No rural idyll); phương thuốc đắng (Drastic medicine); đô thị bức
xúc (Urban discontent) và sau cùng là kế sách đương đầu với Trung quốc (Be
prepared). Thiên khảo cứu vẽ ra một bức tranh Trung quốc vừa mạnh vừa có những
điểm yếu căn bản. Vấn đề là mạnh hay yếu Trung quốc vẫn là một đối tượng của
thế giới trong nhiều thập niên tới. Việt Nam nằm bên cạnh Trung quốc, lại đang
theo đuổi chính sách hợp tác gần như vô điều kiện với quốc gia lân bang khổng
lồ này nên tương lai của Việt Nam từ kinh tế đến chính trị, nhất là an ninh
quốc phòng sẽ là cái bóng của những gì diễn ra tại Trung quốc. Cho nên đọc
thiên khảo cứu này chúng ta có thể tìm thấy được lẽ mạnh yếu của Việt Nam và
con đường để thoát ra khỏi ngõ bí của lịch sử mà những người lãnh đạo đảng cộng
sản Việt Nam đang dẫn dắt đất nước đi vào.
            Sau đây tôi chỉ tóm
tắt 3 phần chính: Sự thay đổi lãnh đạo tại Trung quốc; Đô thị bức xúc và Kế
sách đương đầu với Trung quốc. Dưới một nhan đề lớn: “ Trung quốc thấm mệt” (Trần Bình Nam)
 
Lãnh đạo mới
Cuối năm nay (2002) tại đại hội đảng cộng sản Trung quốc Jiang Zemin
(Giang Trạch Dân) sẽ nhường ghế Tổng bí thư cho ông Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào). Sau
Mao, lãnh đạo của Trung quốc là lãnh đạo tập thể. Với Đặng Tiểu Bình là do ý
muốn của ông, với Giang là một nhu cầu, và với Hồ Cẩm Đào là một bắc buộc.
Giang sẽ không giao hết một lần cả 3 chức vụ (Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Chủ
tịch Quân ủy) ông ta đang nắm giữ cho Hồ Cẩm Đào. Và ngay cả khi Hồ Cẩm Đào có
cả ba chức vụ trong tay chưa chắc ông ta đã có toàn quyền. Năm 1989 Giang trở
thành Tổng bí thư đảng và đến năm 1993 Giang nắm hết các chức vụ trọng yếu
trong tay, nhưng Giang cũng chỉ có thực quyền sau khi Đặng Tiểu Bình qua đời.
 
Hồ Cẩm Đào thuộc thế hệ thứ tư (sau Mao, Đặng và Giang). Năm 1992 khi
Hồ Cẩm Đào vào Bộ chính trị Trung quốc ông ta là Ủy viên Bộ chính trị trẻ tuổi
nhất kể từ năm 1960. Tin đồn rằng trước khi qua đời Đặng dặn Giang nên chuẩn bị
cho Hồ Cẩm Đào thay thế trong tương lai, và Giang làm theo lời Đặng cho rằng
Đặng là người biết nhìn người. Đặc tính nổi bật của Hồ Cẩm Đào là trung thành
với đảng. Cuối thập niên 1980 khi giữ chức Tổng bí thư đảng tại Tây Tạng Hồ Cẩm
Đào  đã mạnh tay đàn áp phong trào đòi
tự trị tại đó. Nhưng trong 10 năm qua Hồ Cẩm Đào âm thầm làm việc  ít làm ai chú ý. Hồ Cẩm Đào muốn tránh bước
xe đổ của Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, nhưng cũng có thể ông ta không có
sáng kiến gì mới mẻ. Có một ghi nhận. Trong năm 1993 khi giữ chức vụ giám đốc
trường đảng ông cho phép nghiên cứu về sự phát triển của các đảng dân chủ xã
hội tây phương bên cạnh lý thuyết Mác-Lê-Mao và thuyết Đặng Tiểu Bình. Tuy
nhiên ông rất cảnh giác diễn biến hòa bình của tây phương. Năm 2000 trong một
buổi nói chuyện với cán bộ cấp lãnh đạo Hồ Cẩm Đào nói: “Hãy cảnh giác ảnh
hưởng tây phương làm cho chúng ta phân hóa và biến chất, dẫn dắt chúng ta ra
khỏi con đường xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung quốc.”
 
Tuy nhiên chừng nào còn Giang thì thế giới chưa thấy được hết đường lối
chính trị của Hồ Cẩm Đào. Cho đến lúc này người ta chỉ thấy một điểm là Hồ Cẩm
Đào rất quan tâm đến tình báo. Ông muốn tổ chức một cơ cấu trung ương có khả
năng phối hợp tình báo giữa quân đội, công an và bộ ngoại giao. Trong vụ máy
bay chiến đấu của Trung quốc đụng một phi cơ thám thính của Hoa Kỳ đầu năm
2001, các ủy viên Bộ chính trị Trung quốc không biết quyết định như thế nào
trong một thời gian dài trước khi có đủ tin tức để đồng ý về một giải pháp. 
 
Ông Hồ Cẩm Đào chưa có nhiều kinh nghiệm đối ngoại. Ông đi thăm Tây âu
lần đầu vào tháng 10/2001, và mới viếng thăm Hoa Kỳ tháng 5 vừa qua. Người ta
không biết trước một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn ông ta có khả năng giải quyết
không. Trong thời gian tập việc, Giang ít khi để cho Hồ Cẩm Đào có cơ hội thi
thố tài năng trong lĩnh vực ngoại giao. Vì vậy sau khi nắm chức Tổng bí thư ông
Hồ Cẩm Đào sẽ phải làm việc với, hay bị cạnh tranh bởi, những người trong Quân ủy
và trong Bộ chính trị do Giang đưa vào.
 
Đầu sổ là Zeng Qinghong, ủy viên tổ chức đảng. Có phần chắc trong đại
hội đảng 16 kỳ này Qinghong sẽ vào Ủy ban Thường vụ Bộ chính trị và giữ  một nhiệm vụ then chốt hơn trong Quân ủy.
Ông ta có nhiều kinh nghiệm về ngoại giao. Sau vụ Thiên An Môn, quan hệ chính
thức giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trở nên nguội lạnh, đảng cộng sản Trung quốc đã
bí mật giao ông nhiệm vụ liên lạc riêng với Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào, ông Qinghong sẽ nắm an ninh và ngoại giao.
Trong 5 hay 10 năm tới (vào thời điểm đại hội đảng thứ 17 năm 2007) các khuôn
mặt lớn như  Giang Trạch Dân, Lý Bằng,
Zhu Rongji già yếu hay khuất bóng lúc đó thế hệ thứ tư của Hồ Cẩm Đào và Zeng
Qinghong mới thực sự nắm quyền. Cóù một điều đáng quan tâm là thế hệ thứ tư này
bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng văn hóa (1966-1976) nên ít được học hành thấu
đáo và có khuynh hướng mạnh tay. Mặt khác nhìn thấy sự sụp đổ của Liên bang Xô
viết và cuộc nổi dậy tại Thiên An môn họ sẽ rất do dự  khi nới lỏng bàn tay của đảng. Người cộng sản Trung quốc trong
thập niên này sẽ nói đến dân chủ và nhu cầu cải tổ chính trị nhưng họ sẽ chưa
ban cho dân chúng Trung quốc một nền dân chủ thật sự.
 
Đô thị bức xúc
Ai từng đến thành phố Fushun, một triệu 400 ngàn dân, nằm phía đông bắc
xa xôi thuộc tỉnh Liaoning sát biên giới Bắc Hàn sẽ thấy dấu hiệu bất ổn của
các đô thị Trung quốc. Fushun là một thành phố kỹ nghệ hầu hết là quốc doanh
khai thác hầm mỏ, lọc dầu, sản xuất thép và nhom. Trên các góc đường phố đầy
người thất nghiệp cầm bản xin làm bất cứ việc gì từ  sai vặt đến lao động chân tay. Và vài ba ngày lại có một vụ công
nhân nghỉ hưu hay thợ thuyền biểu tình phản đối tiền hưu không đủ sống hoặc trả
lương quá chậm quá ít. Thợ thuyền tại Fushun than phiền một năm họ chỉ được trả
chừng 100 mỹ kim, phần còn lại chính phủ khất nợ. Đầu năm 2002 nếu các cuộc
biểu tình tại Fushun chỉ có vài trăm người thì tại hai thành phố đông bắc khác
là Liaoyang và Daqing có đến hằng ngàn người tham dự. Đây là những rối loạn lao
động có tầm vóc báo động kể từ 10 năm qua tại Trung quốc. Đối sách của công an
là tìm bắt các tay chủ chốt, và hứa hẹn sẽ giải quyết với các thành phần còn
lại.
 
Những cuộc biểu tình của thợ thuyền do nguyên nhân lao động có thể lan
qua những thành phần khác như  giới tiểu
thương, công nhân viên, cán bộ, sinh viên và có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt
kinh tế và tạo chia rẽ trong nội bộ đảng. Nếu bộc phát nó có thể lớn hơn cả
cuộc nổi dậy đòi dân chủ năm 1989 tại Thiên An Môn.
 
Theo một bản nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Trung quốc trong những
năm tới chỉ số thất nghiệp có thể lên đến 15%, và nếu không giải quyết nổi sẽ
có rối loạn xã hội. Việc Trung quốc tham gia Tổ chức Mậu dịch Thế giới sẽ mang
theo đầu tư nước ngoài và công ăn việc làm có thể làm giảm chỉ số thất nghiệp
nhưng một hệ lụy của đầu tư là mức sống dân chúng trong thành phố và nông thôn
càng trở nên chênh lệch hơn, một nguyên khác của bất ổn xã hội. Các thành phố
gần bờ biển (thí dụ Bắc Kinh và Thượng Hải) kinh tế thị trường sung mãn, nhiều
dịch vụ, ai cũng có công ăn việc làm nên sẽ ít vần đề hơn các thành phố nằm sâu
trong đất tại đó đa số hoạt động kỹ nghệ đều thuộc quốc doanh.
 
Những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc biết nếu giảm thiểu hoạt
động quốc doanh để thay dần bằng kinh tế thị trường sự bức xúc của thị thành có
tthể được giải quyết, nhưng đồng thời quyền hành của đảng cũng suy giảm.
 
Năm 1995 Trung quốc có 113 triệu thợ làm việc trong các cơ sở quốc
doanh, hiện nay còn chừng 76 triệu. Nhưng nhu cầu chỉ cần 40 triệu. Câu hỏi
nhức đầu của lãnh đạo đảng là làm sao chuyển 36 triệu công nhân viên và thợ
thuyền thừa sang lĩnh vực tư mà vẫn duy trì được ảnh hưởng của đảng.
 
Tại Shenyang (thủ phủ tỉnh Liaoning) trong thời gian từ 1990 đến 1999
có chừng 32,000 đảng viên mất việc trong các cơ sở quốc doanh và chuyển qua làm
việc trong lĩnh vực tư. Tại đó cơ sở đảng rất yếu hoặc không có. Có chừng 5% cơ
sở tư có chi bộ đảng. Và trong khoảng 10 năm nữa chỉ còn chi bộ đảng trong các
cơ sở chính phủ. Trong năm 1999 đảng cộng sản Trung quốc chỉ tuyển mộ được 29
tân đảng viên trong các cơ sở tư có tổng số chừng 640,000 thợ.
 
Ngoài căng thẳng lao động dân thỉnh thoảng biểu tình chống tham nhũng.
Và như một qui luật quốc doanh là mầm mống của tham nhũng. Thí dụ nỗi bật là
tại tỉnh Liaoning. Mới đây thị trưởng thành phố Shenyang lãnh án khỗ sai chung
thân trong khi phó thị trưởng bị xử bắn vì tham nhũng.
             
Kế sách đương
đầu với Trung quốc
Dân Trung quốc vừa thích dùng đồ tây phương vừa có khuynh hướng chống
tây phương. Điều này thấy được qua các mạng internet. Trong khi truyền thông
chính thức tỏ ra dè dặt do nhu cầu sinh hoạt thị trường, trang nhà (home pages)
của các giới trí thức và tư nhân bày tỏ quan điểm quốc gia cực đoan một cách
không che dấu đặc biệt đối với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Năm 1999 khi tòa đại sứ
Trung quốc ở Belgrade bị bỏ bom (nhầm?), dân Trung quốc bày tỏ sự phẫn nộ ở một
cường độ ngoài sự chờ đợi của đảng cộng sản Trung quốc.  Qua hiện tượng này một số người lo ngại
Trung quốc sẽ đi vào con đường hiếu chiến như 
Đức và Nhật Bản trước thế chiến 2. Nhưng điều đáng ngại hơn là một nước
Trung quốc yếu, chia rẽ và người cầm quyền phải bỏ chính sách ôn hòa với Tây
phương đang theo trong hai thập niên qua. Cựu tổng thống Clinton năm 1999 trước
khi rời chức vụ đã phát họa một chính sách đối với Trung quốc trong tương lai
như sau, và ông phát biểu với kinh nghiệm của một chính khách lúc đầu cứng rắn
và sau thích ứng với tư thế của Trung quốc qua 7 năm cầm quyền. Ông nói: “Chúng
ta cần chuẩn bị để đương đầu với một Trung quốc mạnh và tham vọng nhưng cái
nguy của một Trung quốc đông dân nhiều đất nhưng yếu, chia rẽ, xã hội bất ổn
cũng không phải là nhỏ.”
 
Trong những năm tới Hoa Kỳ sẽ phải đối diện với một nước Trung quốc ít
ổn định hơn bây giờ. Nhưng dù yếu hay mạnh Trung quốc cũng không để cho Đài
Loan được tự do chọn lựa con đường riêng của mình. Năm 2000 Trung quốc đã mua
của Liên bang Nga hai khu trục hạm, năm nay Trung quốc đặt mua hai chiếc nữa.
Các chiến hạm này có khả năng đối đầu với hàng không mẫu hạm của hải quân Hoa
Kỳ trong eo biển Đài Loan. Trong mấy năm qua Trung quốc đã mua của Liên bang
Nga hai tiềm thủy đỉnh và ít nhất 90 chiến đấu cơ kiểu SU-27 và SU-30. Trung
quốc vẫn tiếp tục xây dựng các dàn hỏa tiễn ngắn tầm M-9 và M-11 nhắm vào Đài
Loan. Hoa Kỳ ước lượng vào năm 2005 Trung quốc sẽ có khoảng 600 dàn hoả tiễn
như vậy.
 
Trung quốc còn có một số vũ khí nguyên tử chiến lược, trong đó ít nhất
gồm 20 hỏa tiễn có khả năng bay tới Hoa Kỳ ngay cả trong trường hợp Hoa Kỳ tấn
công phủ đầu trước. Trung quốc cũng đang nghiên cứu chế tạo loại hỏa tiễn dùng
nhiên liệu đặc có thể di chuyển trên đất liền bằng xe và bắn nhanh. Với sự giúp
đỡ kỹ thuật của Liên bang Nga Trung quốc sẽ đóng được tàu ngầm nguyên tử vào
cuối thập niên 2010. Những trang bị này là một mối quan tâm của Hoa Kỳ. Tuy
nhiên ngay cả khi Hoa Kỳ giảm số đầu đạn nguyên tử xuống còn 2200 theo thỏa ước
tổng thống W. Bush mới ký với tổng thống Putin (tháng 5/2002) tại Mạc tư khoa
sự đe dọa của Trung quốc cũng chưa so sánh được với sự đe dọa của Liên bang xô
viết trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Và sau khi Hoa Kỳ trang bị xong
hệ thống chống hỏa tiễn (như đang dự tính) thì kho vũ khí của Trung quốc không
còn là một vấn đề của Hoa Kỳ.
 
Đài Loan đang là và sẽ là một vấn đề lớn giữa Hoa Kỳ và Trung quốc.
Chính sách Đài Loan của tổng thống Bush đã làm cho Trung quốc khó chịu. Ngay
sau khi nhiệm chức Bush hứa bán các loại tiềm thủy đỉnh, khu trục hạm và hỏa
tiễn không-không cho Đài Loan và cam kết bảo vệ Đài Loan nếu bị Trung quốc tấn
công. Sau cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 Hoa Kỳ và Trung quốc có vẻ
xích lại gần nhau vì Trung quốc thấy có nhu cầu hợp tác với Hoa Kỳ giải quyết
vấn đề thiểu số Hồi giáo của chính mình. Tuy nhiên Trung quốc cũng chưa làm gì
cụ thể để giúp đỡ Hoa Kỳ. Trung quốc còn bận tâm với vấn đề ổn định trong nước
và chuẩn bị chuyển quyền.
 
Giữa Hoa Kỳ và Trung quốc còn có nhiều khác biệt chung quanh vấn đề
nhân quyền và về việc bán buôn kiến thức chế tạo vũ khí nguyên tử. Nhưng không
vì vậy Hoa Kỳ và Trung quốc có thể đụng độ nhau ngoại trừ vấn đề Đài Loan. Tuy
nhiên các nhà lãnh đạo Đài Loan  có đủ
khôn ngoan để theo đuổi một chính sách xây dựng uy thế của Đài Loan như một
nước có chủ quyền nhưng sẽ không làm gì (thí dụ sửa đổi Hiến pháp tuyên bố độc
lập) để Trung quốc buộc phải động binh.
 
Lúc này Hoa Kỳ cần tăng cường sự hiện diện tại Á châu trên cả hai mặt
ngoại giao và quân sự, đồng thời cùng với Trung quốc giải quyết bất cứ vấn đề
gì xẩy đến có quan hệ cả hai bên. Việc Trung quốc muốn lấn chiếm Trường Sa của
Việt Nam và giành quyền kiểm soát biển Đông là một trong những vấn đề. Những
vấn đề này có thể tạo căng thẳng nhưng sẽ không biến thành chiến tranh nóng.
Kinh tế Hoa Kỳ và Trung quốc quyện chặt vào nhau qua Tổ chức Mậu dịch Quốc tế.
Phần Trung quốc với nhiệm vụ tổ chức thế vận hội mùa hè năm 2008 Trung quốc có
nhiều lý do để tự chế.
 
Tuy nhiên một điều không ai có thể coi thường là người Trung quốc rất
tự hào về đất nước mình, nên việc trang bị vũ khí của Trung quốc sẽ làm cho các
nước trong vùng nhất là Nhật bản phải nghĩ 
đến việc vũ trang để tự vệ. Ấn độ và Liên bang Nga cũng vậy. 
 
Một số giới chức Trung quốc nhất là giới quân sự thỉnh thoảng vẫn nói
rằng họ muốn Trung quốc trở thành cường quốc tại Á châu, Nhật và Hoa Kỳ chỉ nên
đóng vai phụ. Nhưng muốn vậy Trung quốc phải có một quân đội mạnh và một nền
kinh tế ngang cỡ với Hoa Kỳ. Trung quốc phải còn chờ hằng chục năm nữa. 
 
Hiện nay Trung quốc là trung tâm sản xuất lớn các hàng tiêu dùng trên
thế giới (muốn biết: hãy lại Home Depot hay Wal Mart ...) và Trung quốc cần
nhiên liệu. Cho đến năm 1996 Trung quốc tự túc nhiên liệu, nhưng đến năm 2020
Trung quốc cần nhập cảng 60% nhiên liệu cần dùng. Đến lúc đó Trung quốc sẽ thấy
những khó khăn của Hoa Kỳ và Nhật Bản hiện nay (cần nhiên liệu bên ngoài) và sẽ
thấy ít tự do hành động hơn.
 
Về kinh tế mặc dù Trung quốc là hội viên của Tổ chức Mậu dịch Thế giới
việc buôn bán với Trung quốc không dễ dàng như người ta tưởng. Chính sách trung
ương là một chuyện, chính quyền địa phương là một chuyện khác. Và nếu mọi
chuyện tốt đẹp thì không nói gì, không tốt đẹp người Trung quốc sẽ cho vì tham
gia Tổ chức Mậu dịch Thế giới. 
 
Tương lai của Trung quốc nhìn về một mặt nào đó là một mầu hồng, nhưng
mầu hồng có thể biến thành mầu đen khi những mâu thuẩn lớn (kinh tế thị trường,
độc tài, tham nhũng, cách biệt mức sống giữa các thành phần dân chúng, tranh
chấp quyền hành chính trị ... ) trở thành những yếu tố kình chống nhau không
phương hóa giải.
 
Tuy nhiên giới quan sát quốc tế nghĩ rằng chừng nào đảng cộng sản Trung
quốc còn thuần nhất lãnh đạo đảng vẫn còn khả năng giải quyết vấn đề. Cuộc nổi
dậy Thiên An Môn đã xẩy ra do lãnh đạo bất đồng ý kiến về một chính sách cởi mở
và dân chủ hóa. Hồ Diệu Bang và Triệu tử Dương chủ trương dân chủ hoá, trong
khi Lý Bằng chủ trương cứng rắn, và Đặng Tiểu Bình lúc đầu do dự.
 
Hiện nay giới lãnh đạo Trung quốc hầu như đồng thuận rằng Trung quốc
cần một nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của đảng, và không có
dấu hiệu gì chứng tỏ sự đồng thuận này thay đổi sau khi Hồ Cẩm Đào lên thay thế
Giang Trạch Dân. Và hình như họ còn đồng thuận trong nhận định rằng đa nguyên
đa đảng sẽ làm cho đảng cộng sản Trung quốc cáo chung nên họ sẽ chống lại các
đòi hỏi cải tổ chính trị bằng mọi giá.
 
Trong thời gian Ủy ban Thế vận chọn Trung quốc là nước tổ chức thế vận
hội mùa hè 2008 những người dân chủ trên thế giới hy vọng rằng với nhiệm vụ này
xã hội Trung quốc buộc sẽ cởi mở hơn để tiến dần đến dân chủ. Nhưng kết quả có
thể là một Thế Vận Hội được tổ chức hoàn hảo để đảng cộng sản Trung quốc biện
minh rằng không cần một chế độ chính trị đa nguyên mới làm được việc.
 
Nhưng nếu được việc thì được việc bao lâu nữa?
 
Trần
Bình Nam (24 tháng 6, 2002)
 
 
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |