Trung
quốc: đất nước và con người
Trần Bình 
Tôi và cậu
con trai, Trần Tâm Cương vừa thực hiện một chuyến du lịch Trung quốc cùng với một
đoàn đồng hành 28 người khác do công ty Voyage Saigon Inc.  của ông Trần Chính tổ
chức. Chúng tôi rời 
Chuyến du lịch
15 ngày của công ty Voyage Saigon Inc. đã 
đưa chúng tôi vào một hành trình đầy lý thú như chuyện Lưu Nguyễn lạc đào
nguyên. Bạn đồng hành của tôi gồm đủ tầng lớp, bác sĩ, dược sĩ, tiến sĩ khoa học,
chuyên viên, nhà văn, nhà báo, cựu quân nhân, viên chức chính phủ trong các ngành nghề, sinh viên và thợ thuyền, các bà, các
chị, các em. Tất cả hòa nhập vào với nhau và đều tìm thấy sự thích thú qua một
chuyến đi mà công ty Voyage Saigon Inc. đã nghiên cứu rất cẩn thận và giới thiệu
đầy đủ một nước Trung quốc qua 6000 năm lịch sử từ đời vua Thang, vua Chu cho đến
cuộc cách mạng đổi mới của Đặng Tiểu Bình. Chuyến đi được tổ chức chu đáo, nhưng
nếu không có người hướng dẫn là anh Trần Chính với những câu chuyện đầy màu sắc,
ly kỳ, pha lẫn chút huyền bí và đầy chi tiết được thuật lại một cách duyên dáng
ngay trong khung cảnh lịch sử của nó thì thi vị của chuyến đi cũng mất đi nhiều
phần hứng thú. 
Từ khi đoàn
du lịch đặt chân đến Thượng Hải cho đến khi đoàn rời Quảng Châu đi Hồng Kông chuẩn
bị trở về Hoa Kỳ công ty Voyage Saigon sắp xếp một hướng dẫn viên người Trung
quốc đi theo đoàn du lịch trong suốt hành trình. Vị này là viên
chức cao cấp của sở du lịch Trung quốc có nhiệm vụ trông coi toàn bộ và quan hệ
với chính quyền Trung quốc trường hợp có vấn đề cần giải quyết. Vị này dùng tiếng Anh trong giao tiếp với khách du lịch, và - tôi
nghĩ - hiểu tiếng Việt mặc dù ông ta không dùng. Tại mỗi
địa phương ông ta có một phụ tá cũng nói tiếng Anh thông thạo, nắm vững địa lý
và lịch sử địa phương. So ra những gì họ nói cũng chỉ bằng một chút xíu những
câu chuyện của anh Trần Chính, nhưng sự hiện diện của họ rất cần thiết cho việc
sắp xếp phương tiện ăn ở và di chuyển cũng như sự an toàn của khách du lịch. Họ
là những công chức mẫn cán của sở du lịch Trung quốc, kiên nhẫn, chịu khó và hiểu
được sự quan trọng công việc của họ liên hệ đến kỹ nghệ du lịch và nền kinh tế
nước nhà. Những người trong đoàn hướng dẫn thuộc lớp tuổi
trung niên, từng trải qua những đắng cay của cuộc Cách Mạng Văn Hóa của họ Mao
nên họ trân trọng cuộc đổi mới của ông Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên họ vẫn
không dấu được sự bức xúc trước cuộc sống đổi thay, cảnh sống xô bồ sung túc của
đô thị và những bấp bênh của ngày mai. 
Từ khi đặt
chân đến Thượng Hải du khách như bước chân lên một đoàn tàu luôn luôn di chuyển
với cảnh sắc chung quanh thay đổi hằng phút hằng giờ. Đứng
trên nhánh sông Hoàng Phố của sông Dương Tử nhìn phố Tây Thượng Hải không khác
cảnh 
Ở Thượng Hải một đêm, chúng tôi đi Hàng Châu. 3 giờ xe
buýt của công ty du lịch. Hàng Châu ở phía nam Thượng hải.
Hàng Châu nổi danh bởi những bức tranh “Hàng Châu liễu rũ”
hiễn hiện trước mắt khi du khách dạo thuyền trên Tây Hồ bát ngát ngăn cách bởi
những chiếc đê nhân tạo trông thật huyền bí. Hồ Tây của Hà nội là một mẫu hình thu nhỏ lại của Tây Hồ. Phóng đại ra hai bức tranh giống
nhau như một. Hàng Châu không hổ danh là thành phố đẹp nhất Trung quốc nhất là lúc
chúng tôi đến thu đã sang lá cây bắt đầu ngả sang một mầu
vàng đỏ. Đi trên những đường phố của Hàng Châu chúng ta không còn gặp những tay
giang hồ kiếm khách như trong các chuyện võ hiệp, nhưng chúng ta gặp được Nhạc
Phi, người anh hùng đời Nam Tống và hai vợ chồng Tần Cối bất nhân hãm hại người
trung nghĩa nay phải nghìn năm quỳ gối cho dân gian phỉ nhỗ trước mộ Nhạc Phi,
chúng ta thấy được nơi tu hành của nhà sư hổ mang Lỗ Trí Thâm trong truyện Thủy
Hử, và từ tầng thứ chín của Lục Hòa Tháp xây trên một đỉnh núi cheo leo để trấn
thủy quái chúng ta thấy được cửa  sông Tiền
Đường quanh năm sóng dậy, nơi nàng Vương Thúy Kiều mệnh bạc trầm mình. Nơi đây phảng phất dấu chân của cụ Tiên Điền Nguyễn Du trên đường đi
sứ Trung quốc. Hàng Châu là đệ nhất thắng cảnh vùng Giang Nam làm cho
vua Càn Long nhà Thanh đã phải bốn lần dời long thể đi thăm thú để tận hưởng cảnh
đẹp  của quê hương ông, những chuyến đi đã
trở thành lịch sử trong tập truyện Càn Long du Giang Nam. Rời
Hàng Châu thơ mộng đoàn du khách đi Nam Kinh.
Nam Kinh cách
Hàng Châu 240 km. Nam Kinh còn có tên là thành Kim Lăng, kinh đô đầu tiên của
nhà Minh (1368-1644) trước khi dời về Bắc Kinh, sau này là cái nôi của cuộc cách
mạng Tân Hợi của bác sĩ Tôn Dật Tiên, và là thủ phủ của chính phủ dân chủ đầu
tiên của Trung hoa Dân quốc. Thành Kim Lăng là nơi tướng Trương Phụ đã giải danh
nhân Hồ Quý Ly và con là Hồ Hán Thương về trình vua Minh Thành Tổ năm 1407 sau
khi họ Hồ thua trận bị bắt tại Nghệ An. Theo sử, Hồ Quý Ly không bị giết, chỉ bị
giáng làm lính tuần tại Quảng Tây. Bác sĩ Tôn Dật Tiên người chủ trương Tam Dân
chủ nghĩa (dân tộc: độc lập, dân quyền: tự do, dân sinh: hạnh phúc) chết năm
1925 tại Bắc kinh đã được mang về an táng trên một quả núi cao tại Nam Kinh năm
1929, hai năm sau khi Trung hoa Quốc Dân Đảng dẹp xong loạn sứ quân và thống nhất
đất nước. Từ  chân
núi du khách leo gần 300 bậc thềm mới lên đến vòm chôn xác để nhìn hình hài của
nhà cách mạng dân chủ Trung quốc chạm bằng đá cẩm thạch. Cạnh lăng của Tôn Dật Tiên là lăng cùa vua Minh Thái tổ người
khai sáng nhà Minh. Cạnh lăng của Minh Thái tổ là lăng
của Tôn Quyền, người hùng cứ phương nam của Trung quốc đời Tam quốc.  
Sau Nam Kinh
đoàn chúng tôi dùng máy bay dân sự của hãng China Eastern Airlines đi Bắc kinh.
Chuyến bay dài 1 giờ 30 phút. Trung
quốc có nhiều hãng hàng không dân sự. Ngoài China Eastern Airlines còn có
Shenzhen Airlines, Air China, tất cả là hậu thân của cơ quan Hàng không Dân sự
Trung quốc viết tắc là CAAC (Civil Aviation Administration of China), một hãng
chuyển vận nội địa và quốc tế sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa 1966-1976. CAAC nổi tiếng
là hãng hàng không tệ nhất thế giới: nhân viên tại các quầy vé không biết cười
là gì, vé mua rồi chưa chắc đã có chuyến bay, có chuyến bay chưa chắc đã có chỗ.
Chuyến bay được hủy bỏ hay cất cách trễ không cần biết lý do. Máy bay dơ dáy và
rác rưỡi. Phi công đều là quân nhân quen lái máy bay tác chiến, không thay đổi độ
cao để tránh không khí nhiễu loạn và đáp xuống sân bay như viên đá tảng rơi xuống
nền nhà, và nhất thiết không an toàn. Người nước ngoài từng gọi đùa CAAC là “
Trên đường về
khách sạn, người hướng dẫn cho chúng tôi chạy qua đại lộ Trường An con đường lớn nhất và dài nhất Bắc Kinh để quan sát quảng
trường Thiên An Môn về đêm. Quảng trường Thiên An Môn là một khoảng đất rộng một
trăm mẫu nằm trước cổng Thiên An Môn là cửa chính dẫn vào Thành nội và cung điện
của các vì vua đời Minh và Thanh. Cung điện này gọi là Tử Cấm
Thành và hiện nay được xem như là một khu bảo tàng dành cho du khách. Quảng
trường Thiên An Môn được thế giới biết đến sau cuộc biểu
tình đòi dân chủ hóa chế độ của sinh viên Bắc Kinh và bị đàn áp đẫm máu đêm 3
tháng 6 năm 1989. Nhưng lịch sử đấu tranh của quảng trường Thiên An Môn bắt đầu
từ ngày 4 tháng 5 năm 1919 khi sinh viên Bắc Kinh tụ tập tại đó để phản đối chính
phủ nhượng Sơn Đông (trước kia là nhượng địa của Đức) cho Nhật Bản sau Thế chiến
thứ I. Cuộc biểu dương lực lượng ngày 4/5/1919 đã tạo ra biểu tình bạo động tại
Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu, Hán Khẩu và gây ra một tinh thần quốc gia kháng
Nhật giúp cho bác sĩ Tôn Dật Tiên khơi lại 
Về đêm quảng
trường Thiên An Môn và đại lộ Trường An thật rực rỡ. Có
lẽ chính quyền Bắc Kinh muốn dùng ánh sáng để phô trương thủ đô. Vùng trung tâm Bắc kinh không còn dấu vết gì của một thành phố cổ kính.
Nó giống như một phụ nữ trung niên trang điểm diêm dúa để kiếm
chồng. Nó huy hoàng, tráng lệ hơn cả 
Vạn Lý Trường
Thành khởi công từ thời Tần Thủy Hoàng (221-206 BC) và được xây từng đoạn ngắn để
ngăn những bộ lạc du mục từ miền Bắc. Đến đời nhà Minh, trong thế kỷ thứ 16 các
vua Minh cho nối các đoạn trên thành một trường thành dài 5660 km kéo dài từ bờ
biển cực đông Trung quốc cho đến tận núi Tiên Sơn ở miền Tây. Chúng tôi đến ải Cư
Dũng Quan (Yudongquan), cách Bắc Kinh 2 giờ xe để viếng
Trường Thành. Từ cửa ải du khách theo bậc cấp leo lên
mặt Trường Thành rồi từ đó nếu có sức tiếp tục leo các bậc cấp bằng đá từ thấp đến
cao, từ tháp canh này đến tháp canh khác cho đến chiếc tháp cao nhất trong vùng.
Thời gian leo tới tháp canh cao nhất và trở về là 2 giờ
30 phút cho một người có sức khỏe bình thường. Nơi cửa ải ông Mao Trạch Đông
cho dựng một tấm bảng lớn trên có bút tự của ông ý rằng: chưa lên tới đỉnh chưa
phải là hảo hán. Đoàn chúng tôi 30 người có được 5 hảo hán.
Trở lại Thiên
An Môn. Nếu ban đêm huy hoàng bao nhiêu thì ban ngày sự
canh gát nghiêm nhặt bấy nhiêu. Công an sắc phục bố trí dày đặc quảng trường được
yểm trợ bởi xe công an trang bị đầy đủ dụng cụ chống
biểu tình, phương tiện truyền tin và vũ khí. Và vô số công an
chìm, những người mặc thường phục nhưng đôi mắt rất 
Buổi tối cuối cùng tại Bắc Kinh là một kỷ niệm khó quên. Bữa cơm
tối tại nhà hàng Bắc Hải với món vịt Bắc Kinh chính gốc là một. Vịt Bắc
Kinh được một người đầu bếp làm ngay trước mặt thực khách, nhưng không ngon bằng
vịt Bắc Kinh tại các nhà hàng Tầu ở Singapore, ở quận Cam, hay ở vùng thủ đô
Hoa Thịnh Đốn. Cái thứ hai đáng nhớ là cuộc biểu diễn nhạc thính phòng do ba nữ
nghệ sĩ nổi danh của Bắc Kinh. Bằng độc huyền cầm, nhị huyền
cầm và đàn tỳ bà, ba nữ nghệ sĩ trình bày những điệu nhạc mê hồn của Trung quốc
với tất cả tâm hồn. Không cần phải là người sành điệu, khách du lịch cũng
mường tượng được những gì trong điệu  nhạc như mưa sa, bão táp, ân oán, buồn phiền,
thất vọng, vui tươi qua lời giải thích đầy ấn tượng của ông Trần Chính. Sự hiểu biết về âm nhạc của ông Chính thật sâu sắc. Người Tàu vốn yêu nhạc và từng vui chơi với nhạc qua các triều đại vua
chúa. Họ bị cấm cản trong 30 năm họ Mao thực hiện “Bước
Nhảy Vọt” và “Cách Mạng Văn Hóa”. Mao xem vui chơi đàn
hát là trụy lạc và phản cách mạng. Các nhạc khí tây phương,
ngoại trừ đàn piano, đều bị cấm.
Vệ binh Đỏ đã giết nhiều người chỉ vì thấy các nhạc khí bị cấm
trong nhà.
Rời Bắc Kinh
chúng tôi đáp máy bay đi Tây An. Tây An còn có tên là
Trường An kinh đô triều Đường, gần thành Hàm Dương kinh đô triều Tần Thủy Hoàng.
Từ phi trường Tây An xe buýt chở chúng tôi đến vùng quần
thể nơi an táng vua chúa, thân nhân, quan lại có công của các triều đại đời Đường.
Xe buýt chạy qua miền quê của tỉnh Thiểm Tây. Miền quê Trung
quốc đường sá được mở mang, sạch sẽ nhưng nhà cửa còn thô sơ và bề bộn chứng tỏ
một sự phát triển quá 
Vị trí nổi bật
nhất của quần thể lăng tẩm nhà Đường là nơi hợp táng của
vua Đường Cao Tông và hoàng hậu Võ Tắc Thiên. Bà Võ Tắc Thiên trị vì Trung quốc
suốt 51 năm (654-705) sau lưng vua Đường Cao Tông nhu nhược, và sau lưng con
trai sau khi chồng chết và sau cùng dưới danh nghĩa nữ hoàng đế. Bà hoạch định
nơi chôn bà là ngọn núi Lương Sơn, có một khung cảnh thiên nhiên hùng tráng. Từ
trên xe buýt nhìn vào là một sườn đồi trải dài chừng hai
cây số ẻo lả như thân một người phụ nữ nằm ngữa, phía trên là hai quả núi nhân
tạo, phía dưới giữa hai sườn núi khác là một đỉnh đồi thứ ba thấp hơn và um tùm
hơn. Theo ông Trần Chính, thì theo tương truyền trong
dân chúng Trung quốc, hai quả đồi trên là đôi nhũ hoa của Võ Tắc Thiên và quả đồi
thấp thứ ba là âm hộ của bà nơi bà chôn hoàng đế Đường Cao Tông. Bước lên sườn đồi
là con đường Linh Đạo lát bằng đá tảng có văn võ bá quan của triều đình đứng hầu.
Cuối đường Linh Đạo nơi chân mộ vua là đầy đủ hình tượng của sứ thần các nước chư hầu đến dự tang lễ của vua Đường. Trong chư hầu có sứ thần
của triều đình Việt 
Tây An có suối nước nóng nơi Hoa Thanh Cung, cung điện mùa Đông của
vua Đường Minh Hoàng và bà vợ cưng Dương Quý Phi. Tại đây người ta giữ lại hình
khắc cũng như các bức họa của phụ nữ đời Đường cho thấy trong cung đình người
phụ nữ Trung quốc đã rất tiến bộ trong cách ăn mặc. Họ
mặc áo tay ngắn, cổ hở, tóc vấn cài hoa mẫu đơn không
khác gì thiếu nữ Trung quốc hôm nay.
Hôm sau chúng tôi viếng mộ Tần Thủy Hoàng. Nếu đời Đường thịnh trị nhất
về mặt văn chương thì đời Tần Thủy Hoàng trước đó tám thế kỷ là thời hùng mạnh
nhất của Trung quốc về quân sự. Tiếc rằng triều đại của Tần
Thủy Hoàng chỉ kéo dài được 15 năm từ 221 BC đến 206 BC. Lăng Tần Thủy
Hoàng được khám phá mới đây khi người ta đào thấy nhiều hình tượng bằng gạch của
một đội hùng binh hơn 5000 người ngựa lớn hơn người thật chôn gần một quả núi lớn.
Quả núi lớn được các nhà khảo cổ ghi nhận chính là lăng
của Tần Thủy Hoàng. Vì một lý do nào đó chính quyền Trung quốc chưa cho khai quật,
nhưng người ta tin dưới ngọn núi là lâu đài và thành quách để cho vị vua nhiều
tham vọng họ Tần an hưởng sau cuộc đời trần thế đầy sóng gió của ông như sử gia
Tư Mã Thiên đã ghi lại trong bộ sử nổi danh của ông. 
Tại Tây An chúng
tôi còn được viếng thăm lăng vua Cảnh Đế đời Hán. Một nông dân đào giếng trong một mùa hạn hán tìm thấy nhiều hình bằng
đất nung nhỏ và nhờ đó khám phá ra mộ vua Hán Cảnh Đế dưới một ngọn núi đất.
Triều Hán do Lưu Bang dựng nên và trị vì Trung quốc 4
thế kỷ từ 206 BC đến 220 AD. Chung quanh chân núi trải ra hằng chục cây số vuông
bây giờ là vườn hoa đủ mầu sắc là nơi vua đã cho chôn hằng trăm ngàn hình nhân,
người và ngựa để dùng bên kia thế giới. Chính quyền Trung quốc đang khảo cứu về ngôi mộ và chưa mở cửa cho
du khách.
Sau hai ngày
ở Thiểm Tây, chúng tôi rời Tây An bằng chuyến máy bay
chiều đi Quế Lâm trong tỉnh Quảng Tây gần biên giới Việt 
Quế Lâm có nhiều sông hồ và có nửa triệu dân, nên thành phố thưa
thớt rộng rãi. Chính quyền Trung quốc có kế hoạch biến Quế Lâm
thành thành phố du lịch. Đường sá Quế Lâm sạch sẽ, ban đêm ánh đèn nhiều
mầu sắc phối hợp với mầu cây lá chiếu sáng quanh bờ sông và bờ hồ tạo nên một cảnh
trí êm dịu nhẹ nhàng và thanh thản nên thơ khác với cái khung cảnh lộng lẫy diêm
dúa nhưng ngột ngạt của trung tâm thủ đô Bắc Kinh. Cuộc dạo thuyền
trên sông Ly Giang gần Quế Lâm là một cuộc du ngoạn bằng thuyền máy khó quên vào
những ngày cuối cùng của chuyến đi. Sông Ly Giang, đúng ra là một lạch nước
lòng lạch được vét sâu len lỏi chảy qua những khe núi kéo dài bất tận. Nước sông trong vắt thấy được sạn trên lòng sông như một tấm thảm lót
dưới đáy thuyền trải rộng và kéo dài ra tới hai bên bờ sông. Thuyền máy được thiết kế tầng thượng để du khách ngắm cảnh. Tầng dưới là ghế ngồi. Từ tầng thượng nhìn phía trước hay nhìn
phía sau bạn thấy hằng trăm du thuyền nối đuôi nhau chạy hàng một như một hạm đội
khổng lồ sẵn sàng đội ngũ. Hai bên bờ những trái núi
thon nhỏ như những búp măng vươn thẳng lên bầu trời xanh ngắt với đủ mọi hình
thù làm tôi nhớ đến quần thể cấu trúc núi non hai bên quốc lộ Bắc Giang - Lạng
Sơn gần ải Chi Lăng. Ở đây những trái núi cao hơn, thon hơn và sát bờ sông hơn
nên cho du khách một cảm giác huyền hoặc hơn. Tô điểm cảnh trí
đó những hàng tre trúc cao lớn cành lá mềm mại rủ xuống hai bên bờ sông.
Thấp thoáng sau hàng trúc, giữa khe núi đá ẩn hiện những mái
nhà rêu 
Một đêm với Quế Lâm, chúng tôi đi Quảng Châu chuẩn bị trở về. Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh
Quảng Đông cách Quế Lâm một giờ bay. Quảng Châu thân thuộc với
người Việt hơn Quế Lâm. Nhiều Hoa kiều sống tại Việt
Nam có nguồn gốc ở đây. Tại đó - theo ông Trần
Chính – có nhiều di tích của Triệu Đà, một tướng của Tần Thủy Hoàng. Triệu Đà
chiếm và cai trị miền Âu Lạc năm 207 BC và được một số sử gia xem như là một trong
những vị vua đầu tiên của Việt Nam. Ngoài ra có Trần từ đường,
một thắng cảnh du lịch nơi chúng tôi đến viếng thăm và chưa ai nghiên cứu xem có
liên hệ gì với con cháu họ Trần tại Việt Nam không. Cao điểm của Quảng Châu
là viếng mộ chí liệt sĩ Phạm Hồng Thái nơi đồi Hoàng Hoa Cương. Phạm Hồng Thái
29 tuổi hoạt động cách mạng chống Pháp, tá túc với các đồng chí Quốc Dân Đảng
Trung quốc (Kuomintang) tại Quảng Châu vào khoảng đầu thập niên 1920. Lúc đó Quảng
Châu là căn cứ địa của Kuomintang sau khi tướng Viên Thế Khải manh tâm cướp thành
quả của cuộc cách mạng 1911 để thiết lập lại đế chế. Nghĩa địa
Hoàng Hoa Cương là nơi chôn các liệt sĩ Kuomintang bỏ mình trong cuộc đấu tranh
cho nền dân chủ tam dân của Tôn Dật Tiên. Năm 1923 toàn quyền Pháp tại Đông
Dương Martial Merlin công du Nhật Bản và Quảng Châu để vận động Nhật Bản và Trung
quốc đuổi các  nhà cách mạng Việt Nam ra
khỏi nước. Tại Quảng Châu khi Merlin đang dự tiệc tại khách sạn Victoria Phạm Hồng
Thái đã lẻn vào khách sạn tung lưu đạn ám sát, nhưng
toàn quyền Merlin thoát chết. Cảnh sát đuổi ông đến bờ sông Chiêu Giang, ông nhảy
xuống sông tìm đường thoát, nhưng không may bị chết đuối. Kuomintang
xem ông là người trung nghĩa và dành cho ông một chỗ trang nghiêm trên đồi Hoàng
Hoa Cương, nghĩa địa của các chiến sĩ Kuomintang. Từ cổng vào chúng tôi lên
đồi qua một con đường dốc dài và rộng bằng đá, hai bên cây lá um tùm, thấp thoáng
bia và mộ của các chiến sĩ Kuomintang. Cuối dốc, là mộ
và tấm bia cao của người liệt sĩ hướng thẳng lên bầu
trời xanh ngắt. Bia được ghi bằng chữ Hán và chữ Việt.
Lư hương lớn đầy ắp chân 
Đoàn xe lửa cao tốc rời Quảng Châu hôm sau, một buổi sáng nắng
thu thoi thóp, đưa chúng tôi ra Hồng Kông cách Quảng Châu 2 giờ xe. Vùng Quảng
Châu – Hồng Kông là vùng phát triển cao độ. Xe lửa loại tân kỳ như xe lửa dùng ở
các nước công nghệ chạy băng băng qua khu đại kỹ nghệ Thẩm Quyến, hai bên đường
những hàng cây muồng đang mùa nở hoa một mầu vàng rực . Từ năm
1997 Hồng Kông thuộc Bắc Kinh nhưng Bắc Kinh đồng ý để nằm dưới một chế độ riêng
biệt. Hồng Kông có tiền tệ riêng và có quy chế nhập cảnh
riêng. Rời Quảng Châu là rời Trung quốc, và đến Hồng Kông
chúng tôi phải làm mọi thủ tục như khi vào một quốc gia khác. Điều làm
chúng tôi ngỡ ngàng là sau khi xong thủ tục nhập cảnh, bước ra nhà ga Hồng Kông
chúng tôi thấy hình của ông Giang Trạch Dân bị những người theo giáo phái Pháp
Luân Công (đang bị cấm truyền bá ở Trung quốc) gạch mặt trưng bày trước nhà ga.
Tôi tự hỏi chừng nào thì các bạn Pháp Luân Công thay hình ông Giang bằng ông Hồ
Cẩm Đào đây. Ngỡ ngàng khác là cô Wang, người hướng dẫn địa
phương, một phụ nữ trung niên khá xinh, người hơi đẫy chào chúng tôi bằng lời
chúc mừng chúng tôi trở về với thế giới Tây phương. Hồng Kông đã nằm gọn
trong bàn tay Bắc Kinh còn vậy, thế Đài Loan thì sao? Sẽ là một vấn đề gai góc cho thế giới.
Sau một đêm ở
Hồng Kông, hôm sau chúng tôi đáp máy bay của hãng Asian Airlines trở về Hoa Kỳ,
đến Hán Thành đổi sang chuyến bay số 204 trực chỉ 
Thăm Trung
quốc không ai khỏi có cảm tưởng Trung quốc là một quốc gia có một sức sống tiềm
ẩn và hai hình ảnh của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình là hai hình ảnh đối nghịch
nhau nhưng quyện lấy nhau. Có Mao mới có một nước Trung quốc thống nhất và có
chủ quyền, và có  Đặng
mới có cơm ăn áo mặc và thế siêu cường trước mắt. Người ta không
thấy tượng của Đặng nhiều như tượng của Mao, nhưng Đặng có một chỗ trong lòng mọi
người. Mao có lăng tẩm đồ sộ ở Bắc Kinh, có tượng
đài tại mỗi thành phố, nhưng chỗ của Mao trong lòng dân rất ít. Lăng to, huy hoàng,
nằm giữa thủ đô ngay trên quảng trường Thiên An Môn,
nhưng vẫn có một cái gì thô bạo hơn là lăng tẩm của các vì vua chúa các triều đại
Trung quốc. Điều đặc biệt người dân Trung quốc không hạ bệ
Mao nhưng không kính trọng Mao. Dưới thời đại của Mao Trung
quốc không có luật. Những chỉ thị của Mao, đôi khi chỉ là một lời truyền,
hay ghi nguệch ngoạc trên một miếng giấy nhỏ là luật. Khi nhắc đến vị hoàng đế
không ngôi họ Mao người dân phải kèm theo một chuỗi dài
tên tuổi, chức tước và công lao nếu không muốn bị xem là phạm thượng có thể bị
tù tội, đánh đập và bị Vệ Binh Đỏ giết chết. Nhưng hôm nay người
dân có thể nhắc đến Mao Trạch Đông như là “Mao” vắn tắt. Cô Đặng Dung
(Deng Rong) con gái Đặng Tiểu Bình vừa viết cuốn “Đặng Tiểu Bình và cuộc Cách Mạng
Văn Hóa” đã nhắc đến Mao là “Mao” một cách trống rỗng. Cách xưng hô trong cuốn
sách cho thấy cái nhìn của chính quyền hay của đảng Cộng sản Trung quốc đối với
Mao. Mao không còn là thần tượng. Tuy
vậy người ta không thể chối bỏ Mao, vì công khai chối bỏ Mao là chối bỏ tính chính
thống của đảng Cộng sản Trung quốc. 
Lấy mốc thập
niên 1960, hơn mười năm sau cuộc cách mạng vô sản thành công cho dễ nhớ, Trung
quốc còn nằm trong vòng tăm tối, thiếu ăn thiếu mặc, và
đầy dẫy bất công. “Bước Nhảy Vọt” (1958-1960) để tiến lên xã hội chủ nghĩa được
thực hiện một cách thiếu khoa học và duy ý chí của Mao đã mang đến sự mất mùa và
thiên tai giết ít nhất 30 triệu người vì đói. Bất mãn
nội bộ là nguyên nhân của cuộc “Cách Mạng Văn Hóa” (1966-1976) để Mao có cớ tiêu
diệt tất cả những ai trái ý ông ta trên con đường cách mạng liên tục của ông. Cuộc cách mạng này đã nhận chìm 500 triệu người Trung quốc trong đói
khỗ, ly tán gia đình và giết chóc lẫn nhau. 
Thời kỳ hỗn loạn đó sản sinh cho Trung quốc một số nhân vật tiêu
biểu. Giang
Thanh, người đàn bà mưu mô nguy hiểm, Lưu Thiếu Kỳ khẳng khái chấp nhận chết không
nhượng bộ nguyên tắc, Chu Ân Lai trung thành tuyệt đối với Mao để cứu đất nước
và giúp bạn bè, Lâm Bưu thủ đoạn và tham vọng, Uông Đông Hưng đảm lược để cứu Trung
quốc ra khỏi bàn tay thô bạo của Tứ nhân Bang, và có Đặng Tiểu Bình, người bất đồng
ý kiến cách mạng liên tục của Mao, nhưng có đủ trí khôn biết chọn con đường sợ
Mao để sống, và có đủ độ lượng để không trả thù những người đã hành hạ ông và
gia đình ông sau khi trở lại quyền hành năm 1978. Sự khôn ngoan, chí lớn và sự độ
lượng của ông Đặng đã cắt bỏ được những sợi giây oan nghiệt ràng buộc Trung
quốc để Trung quốc có thể tung bay. Cô Đặng Dung thuật
lại rằng trong hai lần bị Vệ Binh Đỏ của Mao đuổi gia đình vợ con ra khỏi nhà,
lần thứ nhất về Quảng Tây làm thợ, lần thứ hai ở quanh trong vùng Bắc Kinh, Đặng
đã nhiều lần viết thư cho Mao khéo léo nhận lỗi lầm và xin Mao đối đãi với ông
thế nào cũng được nhưng xin đừng đuổi ông ra khỏi đảng. Vỉ đảng
là Mao và Mao là đảng nên Mao cảm động chỉ thị cho Giang Thanh cầm đầu Vệ Binh Đỏ
không được giết ông. Ông cố sống để cuối đời kéo đất nước và một thế hệ
hàng trăm triệu con người ra khỏi vực thẳm của sự cuồng tín và mê muội. Ông Đặng
có một chỗ vững chắc trong lòng người Trung quốc không phải vì ông giúp mang lại
sự ổn định của đời sống vật chất mà do tấm gương khoan dung giữa con người một
nước với nhau. Tấm gương này làm mọi người thù và bạn có thể
nuốt nước mắt nhìn nhau mà sống. Ông Đặng biết còn nhiều
việc phải làm cho Trung quốc, nhưng đời sống con người có hạn. Máu chảy ở
Thiên An Môn chưa được lịch sử giải thích. Nhưng có lẽ
với ông Đặng một người hiểu đất nước và đồng bào mình hơn ai cả ông có thể đã
nhìn cảnh hãi hùng bắn giết đêm hôm đó như một tấm hình nhỏ in ghém bên góc một
bức tranh máu lửa lớn hơn của loạn sứ quân từ đầu thế kỷ cho đến những ngày đất
nước đảo điên trong loạn Vệ Binh trong đó cả triệu người đã bỏ mình. 
Trung quốc là một đất nước đang lên. Nhưng lên
thế nào và ảnh hưởng của Trung quốc đối với thế giới ra sao còn lệ thuộc vào những
yếu tố bất định. Về phát triển nếu chúng ta đi qua những
khu dành cho khách du lịch thì Trung quốc quả đang phát triển với một cái đà
choáng mắt. Một con số tiêu biểu do người hướng dẫn Trung quốc tiết lộ: Trung
quốc mua 17% số cần cẩu sản xuất trên thế giới mới đủ cho nhu cầu xây cất. Thế giới than phiền giá xăng lên cao vì Trung quốc xài nhiều xăng
quá. Và nền kỹ nghệ sản xuất, không cần đồ tốt, mà hợp
với túi tiền của dân thường thường bậc trung của Trung quốc đang áp đảo thị trường
thế giới. Nhưng sự phát triển của Trung quốc không đồng
đều và không thể đánh giá qua sự phát triển nơi các thành phố dành cho khách du
lịch. Một snapshot của miền quê
Trung quốc như đoạn đường 2 giờ xe từ phi trường Tây An đến lăng của vị vua khai
sáng nhà Đường và hoàng hậu Võ Tắc Thiên cho thấy Trung quốc vẫn còn ở sau xa so
với sự phát triển miền quê của Âu châu hay Nhật Bản.
Phát triển bền vững đòi hỏi một chế độ dân chủ. Chế độ một
đảng hiện tại của Trung quốc có thể giúp mang lại ổn định nhưng không phải là điều
kiện để phát triển bền vững. Chế độ độc tài nào cũng có
bế tắc của nó. Tham nhũng, bệnh thâm căn cố đế của con người không có
thuốc trị trong xã hội một đảng, nhất là khi cái đảng đó nắm cả quốc hội, nhà nước,
quân đội, công an và tòa án. Tôi ăn cắp, tôi lại xử tôi
thì chẳng bao giờ ra khỏi cái vòng tròn lẫn quẫn ma quái của tham nhũng.
Đi Trung quốc ai cũng biết là đi du lịch một nước cộng sản. Nhưng hai tuần lễ ở Trung
quốc người du khách không thấy dấu vết gì của một chế độ cộng sản ngoài lá cờ đỏ
chói với 5 ngôi sao màu vàng le lói bên góc trái và đây đó những bức tượng to
nhỏ của ông Mao Trạch Đông. Những người “guide” địa phương thuộc sở du lịch quốc
doanh là tai mắt của chính quyền, nhưng họ ráng làm
nhiệm vụ để làm lợi cho kỹ nghệ du lịch nước nhà hơn là làm một cán bộ tuyên
truyền. 
Vậy Trung quốc có thể dân chủ hóa được không? Tôi không
thấy cái khả năng đó trong cung cách sống của người dân. Họ chấp nhận một
thứ chính quyền mạnh tay và một xã hội ổn định để quên
đi những ngày sống dưới chế độ bất an tàn bạo và thiếu thốn của những năm tháng
dưới Mao. Một phần nào họ tin vào sự kế thừa và sự bao dung Đặng Tiểu Bình để lại.
Tôi không thấy họ có khả năng làm cách mạng dân chủ lúc này.
Còn bộ máy cầm quyền, nói cách khác là đảng Cộng sản Trung
quốc họ nghĩ gì? Họ đang lo cho hơn một tỉ dân có cái ăn cái mặc, họ đang
nghĩ đến vị trí siêu cường của Trung quốc, họ đang nghĩ đến sự đương đầu với
Hoa kỳ. Họ mở cửa đất nước, họ niềm nở với người nước ngoài
nhưng không phải không có chút dè dặt. Trung quốc có một lịch sử lâu dài
cung cấp cho họ đủ chất liệu để hiểu thế nào là độc tài, thế nào là dân chủ, nhưng
tôi có cảm tưởng chính quyền cũng như dân Trung quốc chưa qua hết thời kỳ xáo
trộn để làm một sự chọn lựa, ít nhất là một trật tự trong sự chuyển quyền hành
chính trị. 
Trong cái tâm lý chưa ổn định này những vấn đề tế nhị như vấn đề
Đài Loan là một vấn đề nguy hiểm. Một tính toán sai lầm có thể dẫn tới chiến tranh và trật tự thế
giới lại một lần thay đổi./.
Trần Bình 
Nov. 17, 2004
 
 
| Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |