Trần Bình 
Cuối năm 2006,
các quan sát viên trên thế giới về quan hệ Hoa Kỳ và Việt 
Hoa Kỳ rút Việt
Nam ra khỏi danh sách CPC, tổng thống Bush đi Hà Nội tham dự hội nghị các nước
ven Thái bình dương (APEC), quốc hội Hoa Kỳ thông qua quy chế PNTR, Việt Nam
được trở thành hội viên WTO. Tại Hà Nội tổng thống Bush đã không tuyên bố một
điều gì có thể làm phật lòng Hà Nội ngoài việc tiết lộ (có tính toán) rằng ông
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có con đang học tại Hoa Kỳ. Sau APEC, hai thủ đô Việt,
Mỹ bắt đầu bận rộn chuẩn bị chuyến thăm viếng chính thức của chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết sang Hoa Kỳ dự trù vào cuối tháng 6/2007.
Các quan sát
viên, trong đó có giáo sư Carl Thayer, chuyên viên về các vấn đề Việt Nam tại Úc
cho rằng chỉ có một thỏa thuận chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mới có thể tạo
ra những “tan băng” ngoạn mục như vậy.
Quan hệ chiến
lược này là quan hệ gi? Thật khó giải đoán trong lúc này. Nhưng nếu không có
một giao ước thì khó giải thích được tại sao sau khi vào WTO, sau khi tổ chức
thành công hội nghị APEC và được các nước trên thế giới ca ngợi sự thành công
về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam bỗng ra tay với những người đấu tranh dân
chủ trong nước với những phiên tòa, tuy có để cho phóng viên nước ngoài tham dự
qua trực tiếp truyền hình (close circuit TV), nhưng hoàn toàn hình thức với
những cái án định sẵn để khóa miệng phong trào dân chủ, và chính phủ Hoa Kỳ thoạt
tiên không có phản ứng gì trước các cuộc đàn áp thô bạo này.
Nhưng một sự
cố ngoại giao đã xẩy ra. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đi Bắc Kinh gặp các nhà
lãnh đạo Trung quốc giữa tháng 5, một tháng trước chuyến công du Hoa Kỳ. Chuyến
đi Bắc Kinh bất ngờ của ông Nguyễn Minh Triết cho thấy Việt Nam chịu áp lực
mạnh mẽ của Trung quốc, và Trung quốc quyết dùng áp lực này để phá thế chiến
lược Việt Nam vừa mới hình thành với Hoa Kỳ. Điều này chứng tỏ một sự việc quan
trọng là, Bộ chính trị và Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam có một sự chia rẽ
trầm trọng và phe thân Bắc Kinh (nắm giữ quân đội và công an) đang ở thế thượng
phong, và phe này nhất định dùng thế của mình để không cho phép Việt Nam xích
lại gần Hoa Kỳ. Trung quốc đang chuẩn bị đại hội đảng thứ 17 và ông Hồ Cẩm Đào,
được bầu làm Tổng bí thư đảng tại đại hội 16 không muốn để lộ ra một dấu hiệu
yếu kém nào đối với Hoa Kỳ. 
Chính phủ Hoa
Kỳ tỏ ra khá bực bội trước hành động của Hà Nội và đã đặt lại vấn đề thăm viếng
của ông Triết, nhất là sau khi Liên hiệp Âu châu, các tổ chức nhân quyền trên
thế giới, các tổ chức đấu tranh cho dân chủ tại hải ngoại đồng loạt lên tiếng
trước thái độ đàn áp của Hà Nội, điển hình là tấm hình công an bịt miệng linh
mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án. 
Trước hết là
nguồn tin Hoa Kỳ sẽ chỉ đón tiếp chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết theo nghi lễ
một chuyến thăm viếng làm việc
(working visit), nghĩa là không có nghi lễ đón tiếp quốc trưởng (state visit - gồm súng bắn chào, đại
yến, trú tại nhà khách quốc gia, và diễn văn trước lưỡng viện quốc hội), và sau
đó có tin có thể chuyến đi sẽ được hoãn lại.
Cuối cùng có
lẽ chuyến đi của ông Triết sẽ diễn ra sau khi Hà Nội hứa thỏa mãn một số điều kiện
của Hoa Kỳ như (ít nhất?) trả tự do cho Nguyễn Vũ Bình như bộ trưởng ngoại giao
Phạm Gia Khiêm đã hứa với bà bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Condoleezza Rice mấy
tháng trước. Ngoài ra trước thái độ thiếu ngoại giao của Hà Nội, Hoa Kỳ đã làm
một hành động chưa từng có trong 32 năm qua kể từ ngày miền Nam sụp đổ. 
Hôm Thứ Ba 29/5/2007
đích thân tổng thống Bush gặp đại diện một số tổ chức đấu tranh tại hải ngoại
một cách trang trọng tại phòng làm việc của tổng thống (nơi ông sẽ tiếp ông Triết)
với sự hiện diện đầy đủ các cố vấn cao cấp của tổng thống. Mục đích của cuộc
gặp gỡ trao đổi này trước hết để hóa giải sự im lặng của ông trước đây khi tới
Hà Nội dự hội nghị APEC, nhưng chính yếu là để gián tiếp cảnh giác Hà Nội rằng
Hoa Kỳ vẫn còn một tích sản (asset) chưa xử dụng.
Hoa Kỳ không
muốn hủy bỏ chuyến đi của chủ tịch nhà nước Nguyễn  Minh Triết vì những quyền lợi chiến lược của mình,
và Hà Nội sau khi tỏ ra thần phục Bắc Kinh cũng không muốn hủy bỏ chuyến đi, dù
Hoa Kỳ xuống cấp cuộc tiếp đón và tiếp đón đại diện các tổ chức đấu tranh. Điều
này chứng tỏ Hoa Kỳ và Việt Nam vần còn xem giao ước chiến lược giữa hai nước
vẫn còn là một giao ước có lợi cho cả hai bên, nhất là phía Hoa Kỳ, dù thế nào
cũng không thể bỏ Việt Nam rơi vào đôi cánh tay đang mở rộng của Trung quốc.
Dù không nói
ra Hoa Kỳ cũng biết rằng địch thủ chính của Hoa Kỳ trong thế kỷ 21 là Trung quốc.
Nhưng Trung quốc khéo léo không để lộ mục tiêu chiến lược của mình. Sách lược
của Trung quốc là làm vui lòng Hoa Kỳ những việc không quan trọng, nhưng không
nhượng bộ Hoa Kỳ trước những góc cạnh chiến lược lớn như quan hệ giữ Hoa Kỳ và
Việt Nam.
Hai năm qua Trung
quốc tỏ ra rất mềm dẻo với Hoa Kỳ, và giúp Hoa Kỳ giải quyết căng thẳng giữa
Hoa Kỳ và Bắc Hàn, nhưng Hoa Kỳ biết Trung quốc vẫn âm thầm chuẩn bị thế lực
cho một cuộc đụng độ với Hoa Kỳ trong tương lai, nếu không phải do vấn đề Đài
Loan thì cũng do một đụng chạm quyền lợi nào đó không tiên liệu được. Năm 2005
ông nguyên bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld đã cảnh giác sự việc này trước
hội nghị bộ trưởng các nước Á châu.
Từ tháng Giêng
2007 vừa qua sau khi Trung quốc phóng hỏa tiễn bắn một vệ tinh nhân tạo của
mình đang bay trên quỹ đạo quanh quả đất, Hoa Kỳ tỏ ra rất lo âu (1)
vì nó chứng tỏ rằng trong trường hợp chiến tranh Trung quốc có khả năng bắn hạ các
vệ tinh truyền tin của Hoa Kỳ, chẳng những làm tê liệt hệ thống liên lạc quân
sự của Hoa Kỳ mà còn gây ảnh hưởng trầm trọng đến sinh hoạt kinh tế toàn cầu.
Đồng thời, theo
báo cáo thường niên của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ gởi đến quốc hội phổ biến hôm
25/5/2007 (2) giới quốc phòng Hoa Kỳ ghi nhận rằng Trung quốc có những
chuẩn bị chiến tranh ngoài tầm vóc một biến cố đối với Đài Loan. Trung quốc
tăng cường lực lượng hải quân để có khả năng tấn công các mục tiêu trên Thái
bình dương và bảo vệ các thủy lộ cung cấp dầu hỏa cho Trung quốc. Trong năm qua
Trung quốc tăng số hỏa tiễn nhắm vào Đài Loan từ 800 lên 900 , và đồn trú
400.000 quân nhân (trong tổng số 1.400.000 quân) trong bốn quân khu dọc bờ biển
đối diện với Đài Loan. Trung quốc nâng tổng số ngân sách quốc phòng lên 125 tỉ
mỹ kim tức bằng ba lần con số 45 tỉ như Trung quốc chính thức công bố. Bản báo
cáo ghi nhận rằng Trung quốc phát triển khả năng quân sự để có thể tấn công các
lực lượng quân sự của Hoa Kỳ trong vùng Thái bình dương trong trường hợp Trung
quốc tấn công Đài Loan và Hoa Kỳ quyết định đưa quân đến cứu.
 Ngoài ra Trung quốc “di động hóa” hệ thống nguyên
tử tầm xa bằng cách lấy đạn nguyên tử ra khỏi các vị trí cố định và đặt trên
các tiềm thủy đỉnh hay các dàn phóng lưu động.
Để tránh sự lo
âu quá đáng của quốc hội, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates nói ông không
cho các chuẩn bị này của Trung quốc có tính cách đe dọa Hoa Kỳ. Trong bản báo
cáo nói trên ông ghi nhận rằng để phát triển kinh tế Trung quốc cần dầu mỏ, do
đó Trung quốc có nhu cầu phát triển hải quân để bảo vệ các đường tiếp tề dầu,
nhưng Trung quốc khó có khả năng bảo đảm nhiệm vụ này nếu  Hoa Kỳ quyết tâm ngăn chận. Theo đô đốc hồi hưu
Dennis Blair, cựu tư lệnh quân đội Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương hải quân Hoa Kỳ
có khả năng kiểm soát và bảo vệ các hải đạo huyết mạch trên thế  giới (3) 
Nhưng điều này
không có nghĩa sẽ có chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong một tương lai
có thể thấy được. Bởi lẽ Trung quốc cần ít nhất vài chục năm nữa may ra mới có
thế đương đầu với Hoa Kỳ.  
Nhưng trên con
đường tăng cường thế lực Trung quốc sẽ củng cố những vùng đã chiếm như Mãn châu
ở mạn bắc, Tây Tạng ở mạn tây và bành trướng ở mạn nam. Việt 
Trong tình huống
hiện tại Việt 
Qua chuyến công
du Hoa Kỳ gặp nhiều trục trặc của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, chúng ta
thấy bộ máy lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam đang bị chia rẽ trầm trọng bởi
thành phần thân Trung quốc trong Bộ chính trị, và Trung quốc đang làm bất cứ gì
có thể để khơi sâu thêm sự chia rẽ này để phá vỡ bất cứ thế liên minh nào giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ./.
            
                       Trần Bình 
                       May 30, 2007
                       Tài
liệu tham khảo:
                                 
                                 (1)  “
                                 (2)  
                                 (3)  “Smooth Sailing: The
World’s Shipping Lanes Are Safe” by Dennis Blair & Kenneth Lieberthal,
                              tạp
chí Foreign Affairs số tháng 5 & g 6, 2007   
   
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |