Tư
Bản và Xã Hội
Hai mặt của một vấn đề
Trần
Bình Nam
Không có gì giải thích rõ ràng sự khác
biệt giữa khuynh hướng Cộng Hòa và khuynh hướng Dân Chủ tại Hoa Kỳ bằng hai câu
nói của tổng thống Ronald Reagan và Barack Obama về vai trò của chính phủ.
Ngày 20/1/1981 trong bài diễn văn nhậm
chức tổng thống Reagan nói: “Trong cuộc
khủng hoảng hiện nay, chính phủ không phải là giải pháp, chính phủ chính là vấn
đề của chúng ta” (nguyên văn: In this present crisis, government is not the
solution to our problem; government is the problem).
Tổng thống Obama, trong bài diễn văn
nhậm chức ngày 20/1/2008 thì nói: “Chúng ta không
còn thắc mắc chính phủ quá lớn hay quá nhỏ, thay vào đó chúng ta hỏi chính phủ
có làm việc hữu hiệu không – có tạo ra công ăn việc làm lương đủ sống, có chế
độ săn sóc sức khỏe tốt, có hưu bổng đầy đủ cho người nghỉ hưu không…” (nguyên văn: The question we ask today is not whether
our government is too big or too small, but whether it works -- whether it
helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement
that is dignified.)
Đối với tổng thống Reagan, đại diện cho khuynh hướng
Cộng Hòa, nguyên tắc cung cầu là bàn tay vô hình điều khiển nền kinh tế quốc
gia. Và chính sách thuế khóa của chính phủ nếu thích hợp (chính yếu là giảm
thuế) sẽ tạo điều kiện cho giới tư bản đầu tư tiền bạc đúng lúc đúng chỗ mang
lại sự phồn thịnh. Nếu chính phủ dùng quyền viết ngân sách để đánh thuế cao rồi
dùng tiền thuế bỏ vào các chương trình chi tiêu và trợ cấp để ảnh hưởng đến
sinh hoạt xã hội thì nền kinh tế sẽ héo mòn như một cái cây cần đất khô lại
được trồng vào một vùng đất lắm nước. Nói cách khác chính phủ sẽ là nguyên nhân
của mọi vấn đề nếu can thiệp vào sự vận hành của luật cung cầu.
Những người Dân Chủ hiểu luật cung cầu là cốt tủy
của một nền kinh tế tự do, và vai trò quan trọng của các ngân hàng và các đại
công ty trong một nền kinh tế, nhưng họ không khoán trắng vào tay các nhà tư
bản. Nếu để hoàn toàn tự do không có sự kiểm soát của chính phủ, lòng tham (bản
tính tự nhiên của con người) sẽ làm các nhà tư bản bóp méo sinh hoạt kinh tế và
đến một lúc nào đó khủng hoảng kinh tế sẽ bộc phát.
Mặt khác trong thế giới tư bản của luật cung cầu
thành phần có khả năng trí tuệ và đa năng sẽ chiếm thế thượng phong, tích lũy
một tỉ số lớn tài sản quốc gia tạo ra sự chênh lệch khả năng kinh tế giữa các
tầng lớp trong xã hội. Cho nên những người Dân Chủ chủ trương chính phủ phải
nhúng tay vào sinh hoạt kinh tế, dùng quyền ngân sách để phân phối tài nguyên
quốc gia sao cho sự vận hành dưới bảng chỉ đường của luật cung cầu không trở
thành méo mó tạo ra bất công xã hội.
Nói chung người Cộng Hòa hay người Dân Chủ đều biết
giới hạn kinh tế tư bản và sự cần thiết của sự can thiệp của chính phủ. Cái
khác biệt là mức độ.
Kinh tế thị trường huy động sức người sức của hữu
hiệu nhưng thỉnh thoảng theo chu kỳ tạo ra khủng hoảng kinh tế. Trong khi sự
can thiệp quá nặng tay của chính phủ tạo ra sự trì trệ kinh tế. Cho nên ai cũng
thấy sự cân bằng giữa sự vận hành của luật cung cầu và sự can thiệp của chính
phủ là cần thiết.
Và đó là lý do tại sao tại Hoa Kỳ qua các cuộc bầu
cử định kỳ đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hòa thay phiên nhau cầm quyền để sinh hoạt
kinh tế (và qua đó sinh hoạt chính trị) được điều chỉnh vĩ mô qua thời gian, và
tại sao nếu đảng này vào tòa Bạch cung thì đảng kia thường nắm Quốc hội để làm
nhiệm vụ đối lập điều chỉnh vi mô các chính sách kinh tế làm cho sinh hoạt xã
hội được hài hòa.
Trên thực tế, Lực
lượng Tư bản và Sự Can thiệp của Chính phủ là hai điều
đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Tuy nhiên mỗi lần do điều kiện kinh tế phải
chuyển đổi “chính trị” từ phương thức này sang phương thức khác bởi quyết định
của dân qua bầu cử thì phe mất quyền chính trị thường có khuynh hướng đối kháng
để kềm hãm phe thắng thế không đi quá đà trong các chính sách mới, đồng thời
chuẩn bị thế chính trị cho khuynh hướng của mình.
Và khi sự chuyển đổi chính trị là kết quả của một
tình trạng khủng hoảng xã hội và kinh tế thì phản ứng đối kháng càng mạnh mẽ.
Và điều này giải thích sự phản kháng đầy mầu sắc đảng phái của đảng Cộng Hòa
đối với luật kích thích kinh tế 787 tỉ vừa được tổng thống Obama ký ban hành
ngày 17/2/2009. Các lý lẽ phản kháng (như quá nhiều chương trình chi tiêu, quá
nhiều chương trình trợ cấp, chương trình phi lý như giúp những người mất nhà do
họ thiếu trách nhiệm khi vay tiền mua nhà biết rằng mình không có khả năng trả
...) đều hữu lý trên mặt lý thuyết nhưng không hữu lý trên mặt thực tế. Khi con
bệnh đang hồi thập tử nhất sinh phương thuốc cần nặng về chữa trị biến chứng
hơn là nặng về chữa trị nguyên nhân có tính dài hạn. Và đó là bản chất và nội
dung của luật kích thích kinh tế 787 tỉ mỹ kim.
Trong 8 năm cầm quyền tổng thống George W. Bush áp
dụng đường lối kinh tế thuần tư bản đặt nặng trên hai nguyên tắc làm kim chỉ
nam từ thời tổng thống Reagan là (1) giúp đỡ cho các đại công ty phát triển làm
ăn, tin rằng người nghèo sẽ được hưởng phúc lợi theo (trickle –down economics) và (2) giảm thuế - nhất là giảm
thuế cho những người giàu có, những tay tư bản – để các nhà tư bản có thêm tiền
đầu tư làm cho nền kinh tế chuyển vận mang lại phúc lợi cho xã hội (supply-side
economics).
Tuy nhiên chính phủ Cộng Hòa đã tạo ra một khung
cảnh sinh hoạt kinh tế thiếu kiểm soát đưa đến quá đáng và lợi dụng. Giới tư
bản (tượng trưng là Wall Street và Main Street – Thị trường Chứng khoán và Ngân
hàng) được tự do do sự phá bỏ các khâu kiểm soát (regulations) trở nên làm ăn
thiếu nguyên tắc. Ngân hàng Trung ương giảm lãi xuất quá thấp và quá lâu, các
dân biểu kiếm phiếu bằng cách khuyến khích mọi người mua nhà dù không đủ điều
kiện và làm ngơ trước mọi dấu hiệu bất ổn đã đưa đến cuộc khủng hoảng kinh tế
bùng nỗ vào tháng 9/2008. Sau gần 6
tháng (9/2008 – 2/2009) các cơ sở tài chánh lớn và các ngân hàng kếch xù trụ cốt
của kinh tế quốc gia hoàn toàn sụp đổ và mới nhất là sự lung lay của hai đại
ngân hàng còn sống sót là Bank of America và City Bank. Đây là cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn nhất và trầm trọng nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng năm 1929.
Và đã có khủng hoảng kinh tế
thì chính phủ phải can thiệp.
Đó là điều từng xảy ra như một nguyên tắc, mặc dù
mỗi lần xẩy ra đều có cuộc tranh cãi giữa các chính trị gia và các nhà kinh tế
về mức độ và sự hữu hiệu của phương pháp chữa trị.
Trong cuộc đại khủng hoảng năm 1929 tổng thống
Franklin D. Roosevelt đã thành lập Tổng Cục Tìm Việc Làm (Work Projects
Administration – WPA) tạo ra 8 triệu công ăn việc làm, thành lập chương trình
An sinh Xã hội (Social Security) cho người nghỉ hưu và người già cũng như các
cơ chế bảo vệ và kiểm soát như FDIC (Federal Deposit Insurance Commission) và
SEC (Securities & Exchange Commisssion). Trong cuộc khủng hoảng tháng
9/2008 tổng thống Bush cũng đã khẩn cấp quốc hữu hóa hai đại công ty cho vay
tiền (chính yếu để mua nhà) sạt nghiệp Fannie Mae và Fredie Mac và vội vàng
thông qua luật cho phép Bộ Tài chánh tiêu 700 tỉ mỹ kim cứu nguy các cơ sở tài
chánh nòng cốt của nền kinh tế quốc gia đang trên đà sụp đổ.
Và sau khi tổng thống Obama nhậm chức, công việc đầu
tiên của ông là thúc đẩy quốc hội, và chưa đầy một tháng đã ký ban hành ngân sách
kích thích kinh tế (stimulus package) 787 tỉ mỹ kim gồm gần 25% giảm thuế theo
yêu sách của đảng Cộng Hòa, và còn lại cho các chương trình tạo công ăn việc
làm ngay trước mắt và xây dựng căn bản hạ tầng cho sự phát triển bền vững như
sửa chữa đường sá, cầu cống, trường học, hệ thống điện toán đa dẫn (broadband),
chương trình tự túc năng lượng ...
Các nhà kinh tế tư bản cũng như một số dân biểu nghị
sĩ đảng Cộng Hòa cho rằng ngân sách 787 kích thích kinh tế của tổng thống Obama
không giúp đặt căn bản cho sự phát triển dài lâu như sự giảm thuế cho giới tư
bản và khuyến khích giúp đỡ các đại công ty. Họ quên rằng các chính sách trên
đã được thi hành trong 8 năm của Bush và vì quá tin vào sự nhiệm mầu của thuyết
supply-side và trickle-down quên cả nhiệm vụ kiểm soát đã đưa đến tình trạng nguy
ngập hôm nay.
Người ta phê bình đảng Dân Chủ và ông Obama đang áp
dụng nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của Âu châu, hậu quả sẽ làm cho Hoa Kỳ trở nên
nghèo khó thiếu thốn như tại Âu châu. Sự phê bình này có giá trị ở chỗ Hoa Kỳ
là một nước tư bản và nền kinh tế tư bản cung cầu của nó đã giúp nước Mỹ thành
cường quốc kinh tế thế giới. Nhưng sự phê bình không có giá trị ở chỗ là nếu
không tạm thời Âu châu hóa nền kinh tế Hoa Kỳ thì trận bão táp kinh tế 2008 này
có thể sẽ làm tê liệt quốc gia. Các nước Âu châu không phải bỗng nhiên có một
chế độ kinh tế tư bản đậm mầu sắc xã hội như hiện nay, trong đó sự giúp đỡ
người yếu kém trong xã hội cũng cần thiết như sự phát triển kinh tế. Là một lục
địa già và cũ (Old Europe - theo lời của cựu bộ trưởng quốc phòng Donald
Rumsfeld) Âu châu đã trải qua mọi thử thách, và
có thể họ đang chọn cái giải pháp mà họ cho là tối hảo.
Chương trình kích thích kinh tế tổng thống Obama vừa
ký ban hành sẽ làm chậm lại đà suy thoái kinh tế hiện nay, đó là điều không cần
bàn cãi. Điều cần bàn cãi là nó có giúp cho nền kinh tế phục hồi hoàn toàn hay
không, và một câu hỏi then chốt khác là hệ lụy thâm thủng ngân sách (để có tiền
kích thích kinh tế) là một gánh nặng con cháu chúng ta có kham nổi hay không. Vị
trí của Hoa Kỳ trên thế giới sau cuộc khủng hoảng này hoàn toàn lệ thuộc vào
đáp số của hai câu hỏi trên.
Nhìn rộng ra, hình như chính trị và kinh tế thế
giới biến chuyển qua lại giữa hai quan niệm phát
triển kinh tế và an sinh xã hội.
Khi tình trạng phát triển kinh tế gặp trở ngại như suy thoái kinh tế đe dọa an
sinh xã hội thì các biện pháp mang lại an sinh xã hội trở thành ưu tiên. Khi
các biện pháp quá chú trọng về an sinh xã hội làm cho kinh tế bị ngưng trệ thì
đó là lúc giảm sự can thiệp của chính phủ đề nền kinh tế được tự do.
Khi những người lập quốc Hoa Kỳ hình thành trên căn
bản một chế độ lưỡng đảng, một bên Cộng Hòa chủ trương phát triển là chính (dân
sinh sẽ được phục vụ do thành quả của kết quả kinh tế), một bên Dân Chủ chú
trọng đến dân sinh (phát triển là một quan tâm nhưng ưu tiên sau dân sinh) bảo
đảm bởi một Hiến pháp đa đảng họ đã thấy sự vận hành này của xã hội mà mọi chế
độ chính trị đều phải tuân theo như một quy luật. Cho nên sự tranh cãi giữa
Cộng Hòa và Dân Chủ tại Hoa Kỳ không là một vấn đề. Đó là một sinh hoạt dân chủ
để làm cho Hoa Kỳ luôn là một quốc gia hùng mạnh trong khi nhân dân được bảo
đảm một đời sống tự do, phóng khoáng và đầy đủ.
Thuyết Mác xít do Karl Marx và Engels chủ trương
trên bản chất là một nỗ lực giải quyết bất công xã hội do cuộc cách mạng kỹ
nghệ tại Anh quốc (cuối thế kỷ 18 kéo dài sang đầu thế kỷ 19) mang lại như môi
trường bị hủy hoại, đời sống kinh tế chênh lệch, thành phần thợ thuyền bị bóc
lột... Nhưng lý thuyết cải tạo xã hội của Marx chủ trương tiêu diệt tư hữu và
thị trường đã đi quá đà, chệch hướng, và đã cung cấp một căn bản lý thuyết cho
những tay đầu cơ chính trị thiết lập những chế độ độc tài. Chế độ độc tài Mác
xít tại Liên bang Xô viết (trong đó chính phủ nắm toàn bộ sinh hoạt kinh tế) đã
tàn tạ cùng với các nước Đông Âu, và các chế độ cộng sản tại Trung quốc, và
Việt Nam cũng trên con đường tàn tạ nhường chỗ cho kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam chính quyền cộng sản từ năm 1986 đã tạm
từ bỏ chế độ kinh tế tập trung trả quyền quyết định kinh tế cho nông dân và các
thương gia nhưng vẫn kéo dài cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” trong một nền kinh tế
mệnh danh là “kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Lý thuyết “định hướng” này không có gì sai
trái nếu nó được dùng như một phương thức để tránh những thái quá của kinh tế
thị trường như sự phân nhiệm “Cộng Hòa, Dân Chủ” tại Hoa Kỳ . Rất tiếc tại Việt Nam nó là một công thức để
bảo vệ đảng cầm quyền. Đảng nắm các sinh hoạt quốc doanh nói là để bảo vệ xã
hội nhưng thực chất là để bảo vệ quyền lợi của đảng.
Tại Trung quốc có một biến chuyển đáng quan tâm do
ông Cheng Li nêu ra trong bài viết nhan đề “China’s Team of Rivals” đăng
trong tạp chí Foreign Policy số Tháng
Ba/Tháng Tư 2009. Theo ông Cheng Li, Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung
quốc đã có một quyết định độc đáo trong
Đại hội đảng thứ 17 (10/2007) là cất nhắc hai Ủy viên Trung ương đảng trẻ tuổi
vào Ủy ban Thường trực của Bộ chính trị là hai ông Tập Cận Bình (Xi Jinping) và
Lý Khắc Cường (Li Keqiang) để chuẩn bị cho một trong hai trở thành Tổng bí thư
đảng vào đại hội đảng thứ 18 năm 2012.
Hai nhân vật này có khuynh hướng và đường lối chính
trị khác nhau. Ông Tập Cẩm Bình thuộc nhóm có khuynh hướng cởi mở chủ trương
kinh tế thị trường, khuyến khích kinh tế tư nhân (gọi là nhóm Con Dòng – Elitism) (1) trong
khi ông Lý Khắc Cường thuộc nhóm có khuynh hướng chăm lo các vấn đề xã hội và
sự ổn định của đời sống nông thôn là chính (gọi là nhóm Dân Túy – Populist). Hình như ông Hồ Cẩm Đào có ý chuẩn bị hai
khuynh hướng đối chọi nhau trong đảng như một cơ chế điều chỉnh những thái quá
của sự nhắm mắt phát triển bất chấp hậu quả hay sự can thiệp quá sâu đậm của
nền kinh tế xã hội tàn dư của nền kinh tế Mác Xít. Có thể đảng Cộng sản Trung
quốc đã cảm nhận được rằng đảng không thể giữ tính chính thống và tồn tại nếu
tiếp tục đường lối kinh tế dựa vào xuất cảng là chính như hiện nay và đàn áp
mọi tiếng nói đối lập của nhân dân. Với công thức mới đảng Cộng sản Trung quốc
chuẩn bị cho đối lập lên tiếng qua khuynh hướng Lý Khắc Cường (hoặc ngược lại
qua khuynh hướng Tập Cẩm Bình nếu khuynh hướng Lý Khắc Cường cầm quyền). Mèo
trắng mèo đen đều có ích nếu duy trì được sự chính thống của đảng. Và vào đại
hội thứ 18 tùy theo đảng Cộng sản Trung quốc chọn đường lối ưu tiên phát triển
hay ưu tiên chăm lo dân sinh ổn định xã hội mà ông Tập Cẩm Bình hay Lý Khắc
Cường sẽ được bầu vào chức vụ Tổng bí thư.
Nếu quả thật đây là thâm ý chính trị của đảng Cộng
sản Trung quốc thì chuyển biến này sẽ tạo ra tại Trung quốc một khung cảnh
chính trị không khác gì Cộng Hòa và Dân Chủ tại Hoa Kỳ.
Âu, Á, Tư Bản chủ nghĩa và Xã Hội chủ nghĩa gặp nhau
ở đây. Và cuối cùng công thức xã hội Âu châu, một xã hội có tự do dân chủ, có
một nền chính trị đa đảng và một chế độ xã hội trong đó người không may mắn và
ít khả năng vẫn có thể sống chứ không bị chôn vùi dưới lớp gạch nặng nề của các
đại ngân hàng và của các đại công ty sẽ là cái xã hội mà Hoa Kỳ và Trung quốc
vốn khởi đầu từ những xuất phát hoàn toàn đối nghịch với nhau sẽ cùng đi đến.
Trần Bình Nam
Feb. 27, 2009
(1)
Có
nơi dịch là nhóm “bảo hoàng” hay nhóm “vương tử”
Trần Bình
|
http://www.tranbinhnam.com |