Viễn cảnh Việt Nam 2009
(Phỏng vấn của Việt Hùng, phóng viên RFA, phát sóng
trong buổi phát thanh tối ngày 22/1/2009 và sáng ngày 23/1/2009, ngày giờ Việt
Nam)
RFA: Đưa ra lời nhận định về Viễn cảnh
Việt Nam 2009, không ít các nhà theo dõi thời cuộc trong-ngoài nước nhận định
Việt Nam sẽ phải đối đầu với cuộc khủng hoảng lớn.
Nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn trong năm qua có thể đưa đến nhiều vấn đề xã hội phức tạp
tại Việt Nam trong thời gian tới.
Đâu là
những điểm cần bàn về bức tranh toàn cảnh của Việt Nam? Tìm hiểu một số ý kiến
trong và ngoài nước, Việt Hùng của Ban Việt Ngữ ghi nhận qua cuộc trao đổi với
ông Lê Hồng Hà ở Hà Nội và ông Trần Bình Nam từ Hoa Kỳ.
Việt
Hùng:  Đưa ra lời bàn về viễn cảnh Việt Nam 2009 ông Lê
Hồng Hà, một nhà quan sát chính trị về nội tình đảng Cộng sản Việt Nam từ Hà
Nội cho rằng Việt Nam 2009 sẽ bước vào một cuộc khủng hoảng toàn diện lần thứ
hai kể từ sau cuộc khủng hoảng lần đầu tiên diễn ra từ năm 1975-1985,  trong
khi hiện nay các nhà lãnh đạo Việt Nam cho rằng kim chỉ nan của Việt Nam là
phát triển trên tinh thần chỉ hướng của Đại hội X đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Hồng Hà:  Đấy chính là điểm mà tôi nói khác các ông lãnh đạo hiện nay. Qua
phát biểu của các ông ấy, các ông ấy coi nước Việt Nam tuy có khó khăn nhưng
các ông ấy vẫn tiếp tục bàn đến việc thi hành nghị quyết Đại hội X. 
Ý
kiến của tôi là tình hình thế giới và tình hình Việt Nam hiện nay khác hẳn thời
gian hồi Đại hội X. Đáng lẽ ra nỗ lực của toàn dân phải tập trung để vượt qua
được cuộc khủng hoảng này chứ không phải là tiếp tục thi hành nghị quyết Đại
hội X. 
Khủng
hoảng lần thứ hai này đây có vấn đề khủng hoảng về kinh tế. Mà về mặt này đây
có một số lãnh đạo đã nhận thấy được từ lạm phát chuyển sang  giảm phát và
chuyển sang suy thoái kinh tế.
Những
bài phát biểu gần đây của ông Nguyễn Tấn Dũng chứng tỏ rằng các ông ấy đã thấy
suy thoái kinh tế là nguy hiểm rồi,  nhưng ý kiến của tôi là cuộc khủng
hoảng lần thứ hai này cũng như cuộc khủng hoảng lần thứ nhất (1975 – 1985) là
một cuộc khủng hoảng toàn diện về kinh tế, về chính trị, về tư tưởng, về xã
hội, về văn hóa tư tưởng, lý luận… chứ không chỉ nói là khủng hoảng về kinh tế.
Những
tin tức như anh theo dõi Bộ Lao động Việt Nam nói có thể trong năm 2009 có tới
3 triệu người thất nghiệp. Trong khi dân số Việt Nam là 83 triệu mà nói có 3
triệu người thất nghiệp thì đó là một nguy hiểm rất lớn. 
Về xã
hội xuống cấp, tình hình phạm pháp gia tăng, đạo đức xã hội xuống cấp, giáo dục
xuống cấp thì trên mặt báo tại Việt Nam thì đầy rẫy mà những người nào xem báo
chỉ cần có tính tổng hợp một chút là thấy ngay vấn đề. 
Tôi
đã được xem và đọc những bản kiến nghị của những đảng viên, người ta kiến nghị
với Trung ương là phải nhận định lại vấn đề xã hội chứ để như thế này thì mất
quốc thể nguy hiểm lắm.
Việt
Hùng:  Quan điểm từ trong nước của ông Lê Hồng Hà,
cuộc khủng hoảng của Việt Nam 2009  là về kinh tế, về chính trị, về xã hội
và về văn hóa tư tưởng, trong khi từ bên ngoài ông Trần Bình Nam, một nhà bình
luận hiện đang định cư tại Hoa Kỳ cũng đồng ý với ý kiến cho rằng Viễn cảnh
Việt Nam 2009 là khủng hoảng, nhưng ông lại đưa ra 4 điểm của cuộc khủng hoảng
là về kinh tế, về chính trị, về xã hội và về an ninh quốc gia. Nhận định chung
về vấn đề kinh tế ông Trần Bình Nam cho rằng.
Ông
Trần Bình Nam:  Việt Nam hiện giờ
cũng đang bị khủng hoảng kinh tế. Và thế giới cũng đang trải qua một cuộc khủng
hoảng lớn, nhất là tại Hoa Kỳ. Nếu nhìn lại, chúng ta thấy khủng hoảng kinh tế
của Việt Nam đã bắt đầu rất sớm từ cuối năm 2007, trong khi cuộc khủng hoảng
của thế giới chỉ bắt đầu vào tháng 9-2008. 
Như
vậy cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam có nguồn gốc sâu xa hơn. Nhưng
vì kinh tế Việt Nam phần nào cũng dính liền với kinh tế thế giới cho nên cuộc
khủng hoảng kinh tế Việt Nam trở nên trầm trọng hơn. 
Đương
nhiên vấn đề kinh tế liên quan đến nhiều lãnh vực, trong đó có sự tham nhũng.
Không giải quyết được nạn tham nhũng thì không giải quyết được vấn nạn kinh tế
.
Việt
Hùng:  Cũng liên quan đến kinh tế, một yếu tố không
thể không nói đến đó là tình trạng tham nhũng đang lan tràn tại Việt Nam mà nhà
cầm quyền gọi đó là “quốc nạn”. Liệu uy tín của đảng có giảm thiểu hay không
nếu như phong trào chống tham nhũng chỉ đánh “từ vai trở xuống” ông Lê Hồng Hà
nhận định.
Ông Lê
Hồng Hà:  Đúng, đúng là người ta đang nói chưa có thời kỳ nào mà uy
tín của đảng đối với dân lại giảm sút đến như vậy. Người ta đã đề xuất ý kiến
chống tham nhũng nhiều, nhưng Việt Nam nói nhiều mà làm ít mà thậm chí Việt Nam
còn làm những biện pháp chống lại phong trào chống tham nhũng nữa, cho nên nếu
không cẩn thận thì kêu gọi chống tham nhũng chỉ là lừa bịp nhân dân. 
Người 
ta đã góp ý và nói rất là thẳng thắn. Người ta kiến nghị “chúng ta tiến hành
chống tham nhũng kiểu này chẳng khác nào những lời kêu gọi có tính chất lừa
bịp”. 
Việt
Hùng:  Trong lãnh vực xã hội, câu hỏi đặt ra, tình
trạng xuống cấp trong những vấn đề của xã hội Việt Nam phần nào do ảnh hưởng
của xu hướng hội  nhập, ông Lê Hồng Hà đưa ra nhận định.
Ông Lê
Hồng Hà:  Trong xã hội Việt
Nam, nhìn vào những việc đó thì trong những năm trước đây chưa hề có, ví dụ như
phụ nữ Việt Nam hơn 100 người mà để cho mấy ông “rể Hàn quốc” sang xem
mặt  thì cực kỳ buồn bã. 
Người
ta muốn quy cho cái đó là mặt trái của kinh tế thị trường, tôi thấy cách phân
tích như vậy không đúng. Mà cái này nhận thức được sớm bao nhiêu thì có thể
giái quyết sớm bấy nhiêu. Còn bây giờ mà không dám thừa nhận mà cứ tiếp tục lơ
lơ láo láo… thế này thì không được.
Ông
Trần Bình Nam:
 Về mặt xã hội có 3 lãnh vực cần bàn tới.
Đúng ra còn có nhiều lãnh vực khác nhưng ở đây tôi xin đơn cử 3 lãnh vực. Lãnh
vực thứ nhất là Văn hóa, lãnh vực thứ hai là Y tế, và lãnh vực thứ ba là Giáo
dục. 
Lãnh
vực Văn hóa, nước Việt Nam là một nước Á châu trên căn bản có một nền văn hóa Á
đông đặt nặng quan hệ giữa người và người. Hiện giờ nói về văn hóa đối xử, sự
tử tế trong đối xử giữa người và người sa sút hơn trước kia rất nhiều. Tôi nghĩ
đó cũng là sự khủng hoảng về văn hóa.
Lãnh
vực Giáo dục, nền giáo dục Việt Nam bây giờ có sự khủng hoảng từ cấp tiểu học,
trung học đến đại học. Tiểu học và trung học thì mình thấy điều gì? Học sinh đi
học phải đóng rất nhiều thứ tiền. Con em đi học phải học riêng với giáo viên
nếu không thì sẽ không được điểm cao, sẽ khó lên lớp, sẽ khó thi đậu. Cấp
đại học thì tệ hơn nhiều, người ta tạo ra một hệ thống bằng cấp, nhưng thực tài
thì không có. 
Lãnh
vực Y tế, Việt Nam bây giờ không phải là không có bệnh việc tốt. Nhưng người
dân bình thường khi đau ốm phải vào bệnh viện thì rất khổ. Số người có tiền có
khả năng vào những bệnh viện tốt (hay quan chức lớn của chính phủ và Đảng) thì
không nhiều và không nói làm gì. Nhưng với quần chúng chung chung thì rất bi
thảm. Vào bệnh viện phải có phong bì, tức là làm bất cứ việc gì cũng phải có
phong bì. Muốn có giường ngủ tốt phải có phong bì, muốn được bác sĩ tốt đến
chăm sóc thường xuyên cũng phải có phong bì. 
Tóm
lại bức tranh về xã hội Việt Nam không phải là bức tranh tốt.
Việt Hùng: Những dự đoán về bức tranh
“khủng hoảng lớn” tại Việt Nam mà hai ông Trần Bình Nam – Lê Hồng Hà đưa ra từ
buổi phát thanh trước chỉ trong lãnh vực kinh tế và xã hội hay còn trong lãnh
vực nào khác? Việt Hùng tiếp tục ghi nhận những ý kiến.
Nếu đã nói
đến những “khủng hoảng lớn” trong Viễn cảnh Việt Nam 2009 ngoài hai lãnh vực
kinh tế và xã hội thì không thể không nói đến những lãnh vực khác cho dù những
đề tài luôn được coi là “khá nhạy cảm” trên các mặt báo tại Việt Nam đó là an
ninh quốc phòng và chính trị.
Theo dõi
những vấn đề trong “nội tình” đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi ông Lê Hồng Hà
từ Hà Nội cho rằng, Viễn cảnh 2009 của Việt Nam là khủng hoảng toàn diện từ
kinh tế, xã hội cho đến chính trị và văn hóa tư tưởng thông qua công tác lý
luận…thì từ bên ngoài ông Trần Bình Nam cho rằng, “khủng hoảng” về vấn đề an
ninh quốc gia là điều cần bạch hóa để người dân cũng như dư luận ý thức được
những nguy cơ đang đe dọa Việt Nam. 
Ông
Trần Bình Nam: Tôi nghĩ nhà
cầm quyền trong nước không muốn dân chúng và các cơ sở truyền thông báo chí nói
rõ ràng cho mọi người thấy, nhưng mà ai cũng thấy có vấn đề về an ninh. An ninh
ở đây là sự an toàn của Việt Nam trước âm mưu bành trướng của Trung Quốc. Vì
Việt Nam và Trung Quốc có liên hệ về biên giới và đất liền khá dài, cũng như có
vùng biển liên hệ của hai nước là biển đông. Cả hai vùng đó từ xưa đến nay lúc
nào Trung Quốc cũng nhòm ngó. Gần đây thấy Việt Nam có vẻ yếu thế  Trung Quốc lại càng lấn lướt hơn. 
Trong 10 năm vừa
qua, kể từ năm 1999 khi Việt Nam ký Hiệp ước Biên giới trên đất liền với Trung
Quốc, rồi qua năm 2000 ký hiệp ước Biển để phân định lằn ranh trên biển trong
Vịnh Bắc Việt thì chúng ta thấy chủ quyền về lãnh thổ của Việt Nam bị đe dọa
hằng ngày hằng giờ. Việt Nam lúc nào cũng ở thế yếu. Chỉ cần lấy một ví dụ gần
đây thôi, ngoài quần đảo Trường Sa, một quần đảo có nhiều dầu khí…
Khi Việt Nam ký với
những hãng dầu quốc tế như BP (Anh quốc) hãng ExxolMobil (Hoa Kỳ) để khai thác
dầu thì Trung Quốc lên tiếng can thiệp nói đó là đất của họ, biển của họ, 
Việt Nam không được quyền khai thác.
Không chỉ nói không
Trung Quốc còn gây áp lực khiến các công ty đó rút lui khỏi các giao kèo đã ký
với Việt Nam, trong khi đó Trung Quốc lại bỏ ra 29 tỷ mỹ kim để cho các công ty
quốc doanh của họ ký với nước ngoài để khai thác dầu cũng trong vùng biển đó
thì mình thấy rõ ràng nền an ninh Việt Nam đang bị đe dọa và bị đe dọa thực sự.
Có lẽ đây là đe dọa mà tôi nghĩ là lớn nhất trong lịch sử Việt Nam trong khoảng
nhiều trăm năm vừa qua.
Việt Hùng: An ninh quốc gia với cái nhìn
từ bên ngoài của ông Trần Bình Nam là vậy, trong khi từ trong nước ông Lê Hồng
Hà cho rằng muốn kiểm soát được những nhượng bộ mà giới “bảo thủ giáo điều”
trong đảng đang ở thế “chủ động” thì hướng đấu tranh của không ít thành phần
đảng viên trong đảng là phải Luật hóa Điều 4 trước khi bàn đến việc bỏ điều 4
trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam. Đưa ra nhận định,
ông Trần Bình Nam cho rằng.
Ông
Trần Bình Nam: Vấn đề luật hóa
Điều 4 chỉ giải quyết được một phần của vấn đề nhưng không giải quyết được toàn
vấn đề. Hiến pháp quy định đảng Cộng sản Việt Nam là đảng lãnh đạo và vì  không có luật nói rõ lãnh đạo là lãnh đạo như
thế nào, đảng có quyền trên lĩnh vực nào, đảng không có quyền trên lĩnh vực
nào…vì vậy cho nên bất cứ việc gì các chi bộ đảng cứ dựa vào điều đó nói họ có
quyền quyết định mọi thứ… tạo nên một khung cảnh chính trị rất hỗn độn. . 
Nhưng bây giờ nếu
luật hóa trong khung Điều 4 thì cuối cùng vẫn là họ phân ra việc này việc kia
nhưng cuối cùng quy theo ngôn từ của Điều 4 thì vẫn là Đảng lãnh đạo. .
Vì vẫn là đảng lãnh
đạo thì khác nào trên một sân chơi mà người chơi banh và người trọng tài cũng
vẫn là một thì cuối cùng vẫn tạo sự thiếu công bằng và hỗn độn  trên sân
chơi mà thôi. Thành ra tôi nghĩ rằng, nếu Luật hóa Điều 4 thì có thể tạm thời
giải quyết một phần của vấn đề đảng lãnh đạo, nhưng không giải quyết được nguồn
gốc của khủng hoảng chính trị.
Việt Hùng: Bên cạnh những vấn đề về an
ninh quốc gia, về chính trị, một trong những công tác luôn được đảng Cộng sản
Việt Nam cho là “rất quan trọng”, đó là tư tưởng văn hóa thông qua công tác lý
luận. Theo ông Lê Hồng Hà. 
Ông Lê
Hồng Hà: Về mặt trận lý luận
tư tưởng ấy trong các Nghị quyết của Đại hội, của hội nghị Trung ương, của Hội
đồng lý luận…thì người ta vừa đánh giá là công tác lý luận còn bất cập không đi
kịp, chưa giải đáp được những vấn đề của xã hội và đồng thời người ta muốn đẩy
mạnh vấn đề này lên, nhưng theo tôi suy nghĩ hướng cơ bản và tổ chức là không
đúng cho nên mât trận lý luận cơ bản không thể, không thể có tác dụng được. 
Qua bài phát biểu
của tôi trước Hội thảo khoa học (cách đây ít lâu) do ông Phạm Như Cương chủ trì
với đề tài “Góp phần đi tìm chủ thuyết
phát triển cho Việt Nam đầu thế kỷ 21” mà anh đã có rồi. Tôi đã có ý
kiến nhận xét ở trong đấy tôi nói trong thời gian vừa qua công tác lý luận của
Trung ương chưa có thành tích gì cả. Tất cả những bài viết hay sách in ấn xuất
bản ra chỉ là những bài có tính minh họa. 
Theo tôi công tác
lý luận phải tổng kết được, phải phát hiện được sự vận động của xã hội và phải
kết luận được những vấn đề có tính lý luận chứ như vừa rồi Hội đồng lý luận
Trung ương làm chỉ có tính cách minh họa.
Bởi vì làm sao? Bởi
vì cơ bản hướng lãnh đạo của Trung ương là đòi rằng “Công tác lý luận chỉ được
đưa vào vấn đề làm rõ con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội như thế nào”. Tức là
ngoài con đường Xã hội Chủ nghĩa là không được nó cái gì khác. Thế rồi một điểm
thứ hai lại đặt vấn đề là phải trung thành với hệ tư tưởng Mác-Lê-nin để suy
nghĩ về công tác lý luận. 
Nội hai điểm đó đã
triệt tiêu toàn bộ vấn đề công tác lý luận. Cho nên ý kiến của chúng tôi đặt
vấn đề một cách rất thẳng thắn tức là chủ nghĩa Mác-Lê-nin du nhập vào Việt Nam
không đem lại lợi ích gì cả. Như tôi đã nói trong bài phát biểu ấy, đợt năm
1930 thành lập đảng, rồi đến năm giải phóng biên giới xong rồi thì đợt mà ông
Hồ tiếp xúc với Mao Trạch Đông, với Stalin đấy và thế là chủ nghĩa xã hội vào
Việt Nam đem lại tai hại rất lớn cho dân tộc. 
Rồi các Đại hội
đảng quy định đường lối đi lên chủ nghĩa Mác-Lê-nin… thì đó là nguyên nhân dẫn
đến khủng hoảng lần thứ nhất tại Việt Nam (1975 – 1985). Thế cho nên ý kiến của
tôi về mặt này đây là đối lập dứt khoát. 
Và tôi đưa ý kiến
về vấn đề nếu mà chúng ta đem chủ nghĩa Mác-Lê-nin như thế này mà giáo dục cho
sinh viên như hiện nay ở các trường đại học thì lại chính cái  nhà nước
này đây đang làm ngu cả dân tộc này! ./.
| Trần Bình  | http://www.tranbinhnam.com |