Việt Nam:
Tiến Lên hay Rơi vào Sọt Rác
của
Nghèo Đói và Chậm Tiến
Andrew J. Pierre
(Trần  Bình Nam
lược dịch)
Bài nghiên cứu sau
đây do giáo sư Andrew J. Pierre viết, nhan đề: "Vietnam's
Contradictions" đăng tên Tập San Foreign Affairs số tháng 11 và 12 năm
2000. Ông Andrew J. Pierre vừa trở về sau 4 tháng nghiên cứu
tại Học viện Quan Hệ Quốc Tế thuộc bộ Ngoại giao Việt Nam (Institute of
 International Relations). Ông là một giáo sư
làm việc lâu năm tại Viện Nghiên Cứu  Chính sách Ngoại giao và trong Chương
trình Nghiên cứu các vấn đề  liên hệ đến
An ninh Quốc gia. Cả hai cơ sở đều thuộc đại học Georgetown, Washington D.C. 
Việt Nam Là Một Quốc Gia,
Không Còn Là Một Hội Chứng 
Tháng 11 năm 2000 ông Clinton là vị tổng thống Hoa kỳ đầu tiên tại chức
đến thăm một nước Việt Nam thống nhất. Cuộc thăm viếng nhắc người Mỹ nhớ đến một
nước Việt Nam khác hẳn với nước Việt Nam trong chiến tranh. Việt Nam hôm nay là một núi mâu thuẫn. Thành phố Hà Nội và Sài Gòn đầy thanh niên cỡi Honda, chen lẩn giữa xích lô máy và gánh gồng, người xách kẻ
mang.  Quang cảnh đường phố sinh động rộn
rịp: 60% dân số dưới tuổi 30 và 85% dưới tuổi 40. 
Nhưng đó là bề ngoài. Lớp thanh niên năng động thích đến các
"cybercafes", danh từ chỉ các sạp cho thuê máy điện toán để vừa chơi
vừa học. Nhưng Việt Nam với  80
triệu dân đứng hàng thứ 12 trên thế giới về dân số chỉ có 60,000 người chơi
internet, trong đó hết 2/3 thuộc các Bộ trong chính phủ và giới chức đảng. Tiền
thuê chơi 1 giờ internet đắt hơn 1 ngày lương (tính theo
khả năng $320 mỹ kim một năm trong năm 1999). Thanh niên thường thuê máy điện
toán để viết bài hay chơi các trò chơi điện tử 
chứ không phải để tìm tòi học hỏi, vì vậy chưa hy vọng gì cuộc cách mạng
tin học sẽ mở rộng cửa cho Việt Nam đến với thế giới bên ngoài. 
Trong thời gian từ 1990 đến 1995, Việt Nam mở hé cửa và nước ngoài ồ ạt đầu tư.  Nhưng ba năm qua, kể từ
cuộc suy thoái kinh tế Á châu năm 1997, các nhà đầu tư rút dần. Khách sạn và cơ sở dự trù làm văn phòng bỏ trống rất nhiều. 
 Dân ai cũng muốn nước
ngoài đầu tư, nhưng lãnh đạo ngại  "diễn biến hòa bình" và sự
du nhập các tư tưởng tư bản, dân chủ và nhân quyền. Đảng cộng sản Việt Nam còn do dự chưa dứt khoát trong sự chọn lựa giữa kinh tế chỉ
huy độc đảng hay mở rộng cửa đón nhận áp lực của sinh hoạt kinh tế toàn cầu. 
Mâu Thuẫn Hôm Nay 
Cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc  đánh dấu sự thắng trận của phương Bắc. Việt
Nam hoàn toàn độc lập sau một cuộc tranh đấu dài chống Pháp, Tàu, Nhật và sau
cùng là Mỹ. Hà Nội là trung tâm chỉ huy cuộc đấu tranh, và bây gì là thủ đô của
nước Việt Nam thống nhất. Tại Hà Nội có lăng Hồ Chí Minh, một người  được đảng cộng
sản Việt Nam tôn thờ không khác Lê Nin một thời đối với dân Nga. Nhưng ngày 30/4/2000 vừa qua, Hà Nội thật yên tĩnh. Hội hè nghi lễ mừng ngày thống nhất đều
được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, tên mới của thành phố Sài Gòn. Và tổ chức một cách kín đáo. Chính quyền nói tổ chức đơn sơ để tiết kiệm, nhưng dân Sài Gòn đồn rằng chính quyền sợ
dân chúng tụ tập biểu tình. Mâu thuẫn khác là miền Bắc thắng
trận đánh năm 1975 nhưng miền Nam thắng cuộc chiến Bắc-Nam. Chính sách "Bắc hóa" trong thập niên đầu tiên sau
chiến thắng bằng chế độ cưỡng bách hợp tác xã nông nghiệp, và đưa 400,000 ngàn
quân nhân và công chức miền Nam vào các trại học tập cải tạo làm hàng chục ngàn
người chết và hằng trăm ngàn người bỏ nước ra đi. Chính quyền miền Bắc áp đặt
chủ nghĩa cộng sản lên miền Nam và thẳng tay hủy bỏ quyền tự do
ngôn luận và tín ngưỡng. Kết quả nạn đói đã xẩy ra tại miền Nam vốn là đất của lúa gạo. 
Ngược lại lúc này người ta đang chứng kiến
hiện tượng "Nam hóa". Khu kỹ nghệ chung quanh thành phố
Hồ Chí Minh và đồng ruộng miền Nam là nguồn sống của quốc gia với 2/3 khả năng kinh tế toàn
quốc và 80% thuế. Đảng bộ miền Nam khuyến khích dân chúng phát huy sáng kiến sản xuất, áp dụng
các nguyên tắc làm ăn tư bản, tư nhân hóa và đã tạo áp
lực lên miền Bắc. Nhờ kinh tế sung mãn, người dân miền Nam sống sung túc và thoải mái hơn người dân sống ở thủ đô Hà
nội. Miền Nam đang có 
khả năng tranh thủ lòng dân hơn miền Bắc. 
Cuộc tranh thủ lòng dân đứng trước một mâu thuẫn lớn: Dân và
chính quyền đều muốn phát triển kinh tế để tạo nên một đời sống sung túc nhưng
không đồng ý ùnhau về cách thực hiện. 
Đảng chủ trương "thị trường hóa nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa" pha trộn giữa Karl Marx và Adam Smith một
cách khó hiểu cho thấy đảng còn lúng túng. Dân chúng thì càng
ngày càng mất kiên nhẫn. Dù không có đầy đủ tin tức bên ngoài do nhà
nước hạn chế thông tin dân cũng biết nếu không mở rộng cửa thì Việt Nam khó
theo kịp sự phát triển của các quốc gia trong vùng Á châu, chưa nói tới sự phát
triển chung trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam đang đi xuống. 
 Đảng
cộng sản Việt Nam biết dân muốn gì nhưng đảng cũng biết
rằng mở rộng cửa thị trường phải đi đôi với cởi mở chính trị, và đảng sợ rối
loạn xã hội và mất quyền kiểm soát. 
Chủ Nghĩa Cộng Sản
Theo Kiểu Việt Nam 
 Đảng
cộng sản Việt Nam có mặt mọi nơi trong đời sống ở nông
thôn. Ưu thế của đảng
được ghi trong Hiến pháp (Điều 4), và các đòi hỏi đa đảng đều bị cấm tiệt.
Đảng viên giữ chức vụ cao cấp trong các bộ, trong quân  đội, trong bộ máy công an., trong các
ngành truyền thông và trong các cơ sở quốc doanh. Tại Việt Nam không có sự phân biệt giữa đảng (cộng
sản) và nhà nước. Cả
hai chỉ là đảng. Quốc hội do đảng nắm. Đảng thuận mới
được ra ứng cử, và đa số đại biểu quốc hội là đảng viên. Các quan tòa cũng là đảng viên nhận mệnh lệnh của đảng. Đảng
kiểm soát các Ủy ban nhân dân từ cấp ấp xã trở lên. Thực tế 80 triệu dân Việt
đang được khoảng 2 triệu rưỡi đảng viên cai trị. 
Bộ ba : chủ tịch nước, thủ tướng và
tổng bí thư đảng đang điều hành mọi hoạt động quốc gia. Bộ ba này do Bộ chính
trị đảng gồm 18 người chọn cuối năm 1997 qua dàn xếp nội bộ. Thủ tướng Phan Văn
Khải, người chủ trương cởi mở kinh tế được chọn để cân bằng với tổng bí thư Lê Khả Phiêu, người đảng viên bảo thủ đã leo lên các nấc
thang quyền lực qua các chức chính ủy trong quân đội. Chủ
tịch nước Trần Đức Lương ở giữa. Cách làm việc giữa họ với nhau khá kín
đáo và khó dò biết hơn cách làm việc giữa các ủy viên Bộ chính trị của Liên
bang Xô viết trước đây. Tuy nhiên người ta có thể thấy Lê Khả
Phiêu nắm nhiều quyền nhất trong 3 người và có thể nắm luôn chức Chủ tịch nước
qua đại hội 9 của đảng sắp tới. Khải thất bại trong nỗ
lực vận động cởi mở kinh tế có lẽ sẽ từ chức. 
Sự 
tranh chấp nhẹ nhàng giữa bộ ba
Phiêu, Khải, Lương là một phần trong cuộc tranh chấp lớn giữa kinh tế và chính trị
mà Việt Nam phải đương đầu. Câu hỏi: làm thế nào để "nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa" có thể hội nhập vào
trào lưu toàn cầu hóa chưa có câu trả lời. Và nếu đường lối
kinh tế hiện tại chứng tỏ không ổn thì làm sao đảng duy trì được quyền lãnh
đạo? Đảng lúng túng trong việc tìm giải pháp vì quyết
định nào cũng cần Bộ chính trị thống nhất ý kiến. Thảo
luận thường đưa đến bế tắc như chúng ta đã thấy đảng thụt tới thụt lui trong
quyết định ký kết thỏa ước mậu dịch song phương với Hoa Kỳ. 
Nhiều đảng viên trẻ tuổi (và một ít đảng
viên cao niên ít thế lực) muốn nhanh chóng mở rộng kinh tế thị trường, nhưng ý
kiến của những đảng viên lớn tuổi đang cầm quyền là ý kiến quyết định. Đa số đảng viên cao niên đều trải qua
tuổi thiếu thời tham gia một trong hai cuộc đấu tranh giành độc lập và thống
nhất. Họ sợ ảnh hưởng của nước ngoài qua sức ép toàn
cầu hóa. Trong bài diễn văn đọc hôm kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng
cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu nói trắng ra rằng ông ta chống chủ trương toàn
cầu hóa và cương quyết giữ bản sắc xã hội của nền kinh tế Việt Nam. 
 Nhưng chất keo giữ
các đảng viên lại với nhau dưới mái nhà của đảng không còn thuần là lý tưởng mà
còn do quyền lợi. Là đảng viên họ có thể có việc làm tốt  trong lĩnh vực công, có nhà, có xe và
có thể được đi công tác nước ngoài. Những người hoạt động tư doanh nếu có bạn
bè đảng viên có thế lực cũng xin được môn bài hay giấy phép làm ăn dễ dàng hơn. Vì vậy cái thẻ đảng viên
vẫn có sức hấp dẫn đối với thành phần xuất sắc trong xã hội mặc dầu thành phần
này không quan tâm đến lý thuyết cộng sản lỗi thời. 
Sự 
kiện này dẫn đến tham nhũng. Cựu
tướng Trần Độ  nói
ông thất vọng vì lý tưởng đưa ông đến với đảng năm 1941 hồi ông còn niên thiếu
đã bị phản bội. Ông viết: "Quyền hành tuyệt đối của đảng dẫn tới sự lạm
dụng quyền lực." Tham nhũng bắt đầu từ cấp phường xã.
- nông thôn nhiều nơi dân đã đứng lên phản đối chính
quyền địa phương lạm dụng quyền lực trong lĩnh vực giá cả, đánh thuế, phân chia
nhà cửa và đất đai. Năm 1997 có hơn 100 xã ở tỉnh Thái Bình nổi lên tấn công
các Ủy ban nhân dân. Bộ chính trị đã tung ra chiến dịch bài trừ tham nhũng,
cách chức Phó thủ tướng Ngô Xuân Lộc năm 1999 và cho thi hành vài án tử hình,
nhưng không ai tin đảng thực tâm (hay có khả năng) bài trừ tham nhũng. Người ta nghi các thành phần bảo thủ lợi dụng chiến dịch chống tham
nhũng để bứng các thành phần cởi mở. Sự sụp đổ Liên bang Xô viết và Đông
Âu cuối thập niên 1980 sau "glasnost", và xáo trộn chính trị mới đây
tại Indonesia làm cho các đảng viên bảo thủ 
e dè tác dụng bất lợi của cởi mở chính trị và kinh tế. Sự sụp đổ hệ thống cộng sản Xô viết không làm cho những người lãnh
đạo đảng cộng sản Việt Nam mất tin tưởng vào chủ thuyết cộng sản. Họ cho rằng Liên bang Xô viết sụp đổ vì Mikhail Gorbachev
thực hiện cởi mở kinh tế mà không bảo đảm sự  ổn định chính trị, chứ không phải sụp
đổ vì kinh tế suy đồi sản phẩm của một chủ thuyết tồi. 
Tranh Luận Về Chủ
Thuyết 
Trái với người cầm quyền, đa số người dân
không quan tâm đến chủ thuyết cộng sản. Họ chỉ lo sao cho đủ ăn. Dân ở thành thị nếu đủ ăn thì lo
kiếm tiền mua cái xe gắn máy, cái máy truyền hình, một ngôi nhà khang trang hơn
để ở. Chuyện đấu tranh giành độc lập và "chiến tranh chống Mỹ" không
còn  là điều lo lắng hằng ngày. Tại Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh dù còn đầy biểu ngữ búa liềm và
tượng Hồ Chí Minh nhưng chẳng ai để ý. 
Mặc dù lo lắng cho đời sống là nguyên nhân chính làm người
dân không quan tâm đến chính trị, sự lo ngại bị rắc rối với công an là một nguyên nhân khác. Tại Việt Nam  không có đối lập chính trị, không được tự do
lập hội, không có tự do báo chí, phát biểu công khai trái đường lối có thể bị
bắt giữ. Tòa án không độc lập 
nên không bảo vệ được ai. Hệ thống an ninh chặt chẽ, và không có
tự do ngôn luận như 
tại các nước Tây phương. Công khai chỉ trích đảng
cộng sản có nghĩa là chống đối nhà nước và bị ghép vào tội phản quốc. 
Ngay cả đảng viên có nhiều tuổi đảng cũng phải cẩn thận vì
kỷ luật nội bộ gắt gao. Chỉ có vài
đảng viên có công lớn mới dám lên tiếng chỉ trích đường lối chính sách của
đảng. Nhưng số phận những nhân vật này cũng làm cho
những người khác e dè.  Tướng Trần Độ là một người dám lên tiếng chỉ trích đảng. Cuộc nổi dậy tại tỉnh Thái bình, quê quán của Trần Độ cho thấy ông
đã đúng khi nói rằng đảng đã xa rời quần chúng, "Ngày trước đảng với dân
là một, bây giờ đảng với dân là hai. Đảng gồm thành phần được ưu đãi nắm
quyền cai trị dân. Dân là thành phần
bị trị không có quyền nói." 
Tướng Trần Độ, cũng như nhiều người Việt khác, thấy rõ mâu
thuẫn giữa kinh tế thị trường và đường lối kinh tế chỉ huy của 
đảng.
Ông không đồng ý với đảng cho rằng kinh tế phải vững mạnh
trước mới có thể cải tổ chính trị. Ông nghĩ rằng phải
cải tổ chính trị kinh tế mới có thể phát triển. Kết quả tướng Trần Độ bị
đảng trục xuất sau khi ông không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của tổng bí thư Lê Khả Phiêu tiếp tục chỉ trích đảng. 
Đại tá Bùi Tín là một đảng viên khác bị
trừng phạt. Ông Bùi Tín là Phó Tổng Biên
Tập của tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng và là đảng
viên thâm niên nhất theo chân đơn vị đầu tiên vào chiếm dinh Độc Lập ngày
30/4/75. Trong một chuyến công tác tại Paris ông lên tiếng chỉ trích tham nhũng và đòi
thành hình đối lập chính trị. Đảng cộng sản không cho ông về nước. Ông
hiện trú ngụ tại một vùng ở ngoại ô thành phố Paris. 
Nếu bị xem là thành phần bất hảo chính trị, đảng viên sẽ bị
trục xuất, không được liên lạc với  đảng viên khác,  bị cắt điện thoại, bị canh chừng và các đe
dọa khác. Con cái mất đường thăng tiến. 
Đàn áp chính trị là một sắc thái vi phạm nhân quyền của Hà
nội và là một trong những nguyên nhân bất hòa với Hoa Kỳ. Bản báo cáo tình
trạng nhân quyền hằng năm năm 1999 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi rằng  Việt  Nam còn hạn chế nhiều thứ quyền căn bản của
con người như bắt giữ người vô cớ và giam giữ trong những điều kiện thiếu nhân
đạo. Giới hạn hoạt động tôn giáo là một hình thức vi
phạm khác. Sau năm 1975 Hà Nội cấm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt
động và thay bằng một giáo hội thân chính quyền. Các vị tu sĩ chống đối chính
sách tôn giáo của chính phủ đều bị bắt hay bị quản thúc tại gia. Giáo hội Thiên chúa giáo gồm 8 triệu tín độ cũng bị những hạn chế
tương tự. 
Gần đây Hà Nội nới tay đối với tín ngưỡng và một số quyền tự  do khác nhưng tổ
chức Human Rights Watch (Tổ chức Quan sát Nhân quyền) ghi nhận chính phủ Việt Nam là chính phủ đàn áp đối lập chính trị mạnh mẽ nhất. Hà Nội
không đồng ý bảo rằng tự do chính trị được Hiến pháp bảo đảm, và tại Việt Nam
không có tù chính trị,  những người đang
bị giam giữ là những người vi phạm luật lệ quốc gia. Hà Nội cho rằng Tổ chức
Quan sát Nhân quyền đã xâm phạm vào nội bộ Việt Nam. (Lời người dịch: không ai tin Hà nội về điểm này) 
Đường hướng chính trị của Việt Nam sẽ được thử thách tại đại hội đảng lần thứ  9 dự trù triệu tập trong tháng 3 năm
2001. Những quyết định của đại hội 9 sẽ ảnh hưởng đến tương
lai Việt Nam trong vòng 5 hay 10 năm tới. Đã có dấu hiệu bất hòa nội bộ.  Hội nghị trung ương đảng họp tháng 4 vừa qua
chuẩn bị cho đại hội 9 
đã không nhất trí về một điểm căn bản nào. Năm
năm trước đại hội đảng lần thứ 8 cũng bị bế tắc tạo điều kiện cho phe bảo thủ
tiếp tục nắm quyền. 
Khó đoán được đại hội 9 sẽ thông qua được
những gì. Mới đây Hà Nội đồng ý ký bản
thỏa ước mậu dịch với Hoa Kỳ sau một năm do dự  là dấu hiệu cho thấy ít nhất đảng cộng
sản Việt Nam cũng thấy nhu cầu hòa mình vào sinh hoạt kinh tế thế giới.
Việc đón tiếp tổng thống Clinton là một 
dấu hiệu cởi mở khác. Tuy nhiên trong 18 tháng qua người ta vẫn
nghe thấy luận điệu quá khích và bảo thủ được tung ra từ  Hà Nội. Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu dẫn đầu một chiến dịch học tập tự phê nhắm phê bình cá nhân chủ
nghĩa, nhấn mạnh chủ trương ổn định chính trị phải đi trước mọi cải tổ khác và
thề cương quyết chống "diễn biến hòa bình." Tại Hội nghị Trung Ương
đảng tháng 11 năm 1999 đảng chú trọng đến việc xây dựng nội bộ,  thắt chặt hàng ngũ đảng chống sức ép bên
ngoài. Giới chuyên viên trong bộ máy nhà nước trở nên thận
trọng trước khuynh hướng mới. Sự việc đó cho thấy ưu
tiên của đảng là duy trì quyền hành trước mọi ưu tiên quốc gia khác. Chính sách này kéo dài được bao lâu trước nền kinh tế càng lúc càng
xuống là một câu hỏi then chốt. 
Có Khả Năng Nhưng
Không Biến Thành Sức Mạnh 
 Mâu
thuẫn lớn hiện nay tại Việt Nam là tài nguyên mọi mặt dồi dào mà quốc gia
không lớn mạnh. Việt Nam giàu tài nguyên thiên nhiên, thành phần
trẻ đông đảo, chịu khó, hiếu học và có kỷ luật. Tỉ số biết đọc biết viết 95%. Việt
Nam có dầu hỏa, sản xuất gạo, hải sản, cà phê và đất đai mênh mông thuận lợi cho nông nghiệp. Kỹ
thuật tin học cũng hứa hẹn nhiều khả năng phát triển. Thế
nhưng Việt Nam vẫn ì ạch sau các nước láng giềng. 
Thập niên đầu tiên sau khi chiến tranh chấm dứt  là thê thảm nhất.
Chính sách hợp tác xã theo kiểu cộng sản đã mang lại
nạn đói và Việt Nam phải sống nhờ viện trợ của Liên bang Xô viết và một phần
của Trung quốc. Năm 1986 trước sự sụp đổ không tránh khỏi các nhà lãnh đạo cộng
sản mới chịu "đổi mới" chính sách kinh tế, giảm thiểu sự kiểm soát
của nhà nước. Tự do kinh doanh và đầu tư nước ngoài được chấp nhận ở một mức độ
nhỏ. Kinh tế bắt đầu có sức sống và ổn định. Nhưng chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và thôn quê xuất hiện.
Dân sống ở thành thị làm ăn khá hơn, 
trong khi 45% nông dân trong số 80% dân số ở thôn quê sống dưới mức
trung bình. 
Trong 3 năm qua, kinh tế Việt Nam đi xuống sau gần một thập niên khá giả. Trong năm 1999 kinh tế tăng trưởng 4% tổng sản lượng quốc gia(GDP) tức bằng một nửa mức tăng trưởng của những năm đầu
thập niên 1990. Thuế má giảm 5% GDP. Kinh tế trì trệ
nên không đủ công ăn việc làm cho lớp người vào tuổi lao
động mỗi năm chừng 1.3 triệu người.  Xuất
cảng giảm sút vì hàng hóa do các cơ sở quốc doanh (chiếm 30% GDP) thiếu phẩm
chất.  Đầu tư nước
ngoài cũng giảm sút. Trong năm 1999 đầu tư  chỉ còn 1.4 tỉ mỹ kim từ  con số 8.3 tỉ tổng cọng của 3 năm trước. Giữa
thập niên 1990 các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô đến Việt Nam nghĩ rằng Việt Nam
với 80 triệu dân là một thị trường hấp dẫn. Nhưng sau nhiều năm đụng chạm chế
độ giấy tờ  thư
lại và nạn tham nhũng các nhà đầu tư  bắt
đầu bỏ chạy. 
May cho Việt Nam kinh tế chưa suy sụp nhờ hai nguồn lợi. Thứ nhất là 2ụ tỉ mỹ kim mỗi năm do 2.5 triệu Việt Kiều đa
số ở Hoa Kỳ gởi về giúp thân nhân, và 2.2 tỉ khác do các cơ sở kinh tế tài
chánh quốc tế cho vay hay cho không. Có dấu hiệu các cơ sở
kinh tế tài chánh quốc tế bắt đầu mệt mỏi vì sự chờ đợi một ngày đẹp trời mãi
không thấy tới. 
Sự giật lùi của nền kinh tế Việt Nam hôm nay không phải chỉ
là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997 như các nhà lãnh đạo
Việt Nam thường nói để biện minh tại sao họ chần chờ  chưa chịu gia nhập vào trào lưu toàn cầu hóa.
Nền kinh tế Việt Nam còn quá khép kín để bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng 1997. Vấn
đề của Việt Nam là đường lối và lãnh đạo. Quản lý các cơ sở quốc doanh yếu kém cần trợ cấp để sống
làm hao mòn năng lực quốc gia, bộ máy ngân hàng do nhà nước kiểm soát hoạt động
không theo tiêu chuẩn quốc tế, không có nguyên tắc cấp
giấy phép đầu tư và luật lệ đóng cửa, phá sản phân minh. Chính
sách trung ương kiểm soát mọi hoạt động kinh tế (tư và công) không phù hợp với
sinh hoạt kinh tế toàn vùng và toàn cầu. 
Muốn phát triển Việt Nam cần cải tổ toàn diện cái khung sinh hoạt
kinh tế đang làm nản lòng đầu tư nước ngoài vàù các cơ sở kinh tế tài chánh
quốc tế. Cần rộng mở
mặt thông tin, bảo đảm tôn trọng chủ quyền trí tuệ và sản xuất. Chính phủ Việt Nam đã thử đi vài bước dè dặt. Để khuyến khích đầu tư nước ngoài, tháng
5/2000 nhà nước Việt Nam tu chính luật "Nước Ngoài Đầu
Tư" (Foreign Investment Law). Tháng 7 cho mở thị trường chứng khoáng tại thành phố Hồ Chí Minh
sau 8 năm chần chừ. Tuy nhiên chỉ có 4 công ti được phéùp bán chứng
khoán, mở cửa 3 ngày một tuần và giá chứng khoán chỉ được thay đổi không quá 5%
một ngày. 
Người ta đặt nhiều hy vọng vào thỏa ước
mậu dịch song phương Việt Nam mới ký với Hoa Kỳ ngày 13/7/2000. Thỏa ước được hai bên thảo luận từ năm 1996. Tháng 9/1999 hai bên chuẩn bị ký bỗng Hà Nội đổi ý làm ai cũng ngạc
nhiên. Một năm sau Bộ chính trị mới quyết định ký.
Có lẽ sau khi thảo luận chán chê đảng cộng sản Việt Nam thấy thỏa ước mậu dịch là cái phao cuối
cùng cần vớ lấy để cứu vãn kinh tế đang xuống dốc. Thỏa ước sẽ thúc đẩy Hoa kỳ đầu tư và giảm thuế quan 40%
cho hàng hóa Việt Nam vào Hoa Kỳ giúp cho xuất cảng Việt Nam (theo ước lượng
của World Bank) lên 800 triệu mỹ kim một năm từ con số 500 triệu của năm 1999,
và sẽ có khả năng tăng cao hơn nhiều năm tới. 
Yếu tố khác thúc đẩy Việt Nam ký thỏa ước mậu dịch với Hoa
Kỳ là Trung quốc mấy tháng trước đó cũng ký một thỏa ước tương tự với Hoa Kỳ.
Việt Nam cũng như Trung quốc có khả năng gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới
(World Trade Organization - WTO) nếu Việt Nam sẵn sàng giảm quan thuế biểu và
tôn trọng quyền sản xuất và chủ quyền trí tuệ cũng như các quyền liên quan đến
dịch vụ. 
Nhưng các thay đổi sinh hoạt kinh tế Việt Nam nếu có đến sẽ đến chậm vì (trong bản thỏa
ước mậu dịch) Việt Nam đòi hỏi và Hoa Kỳ thuận một khoảng thời
gian thích ứng khá dài. Chín năm nữa các ngân hàng Hoa Kỳ mới có thể mở chi nhánh đầy đủ và
tám năm nữa mới có thể bán thẻ tín dụng tại Việt Nam.  Các hãng cung cấp phương tiện thông tin (làm
giảm khả năng kiểm soát chính trị của đảng cộng sản) phải đợi 4 năm nữa mới có
thể ký giao kèo làm ăn chung với các cơ sở địa phương.
Và cũng chỉ chiếm một cổ phần nhỏ. Các
công ti Hoa Kỳ có thể mở cửa hàng bán lẻ tại Việt Nam nhưng mỗi thành phố chỉ được mở một cửa
hàng. Nói chung,
quan hệ mậu dịch Việt-Mỹ còn tùy thuộc cung cách Việt Nam thi hành thỏa ước. 
Với những giới hạn đó, Hoa Kỳ nếu có lợi lộc gì do bản thỏa
ước cũng còn lâu.  Trong 6 năm qua kể từ
khi tổng thống Clinton hủy bỏ lệnh cấm vận,  mỗi năm Hoa Kỳ bán sang Việt Nam 300
triệu mỹ kim hàng hóa, so ra chỉ bằng tiền bán hàng 3 ngày cho Nhật Bản. Bản
thỏa ước sẽ giúp tăng xuất cảng Hoa Kỳ (sang Việt Nam) nhưng khó vượt con số
800 triệu hay 1 tỉ mỹ kim mỗi năm. Tuy nhiên bản thỏa ước bảo đảm số tiền đầu tư  không thể bị tịch
thu sẽ thúc đẩy các công ti Hoa Kỳ mở cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Hiện nay Hoa Kỳ được tự  do bán dụng cụ nông nghiệp và kỹ nghệ.
Trong năm 1999 Hoa Kỳ đứng thứ 8 trong số các nước giao dịch thương mãi với
Việt Nam, và đang chờ quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn thỏa ước. Bận
rộn với tranh cử, và không muốn nghiệp đoàn phiền lòng trong năm bầu cử, quốc
hội Hoa Kỳ sẽ chỉ có thể thông qua thỏa ước trong năm 2001. 
Bản thỏa ước mậu dịch Việt-Mỹ có một tác
dụng tâm lý chắc chắn là thúc đẩy tiến trình cải tổ kinh tế và chính trị để
tiến đến một xã hội cởi mở dân chủ hơn. Nếu thi hành đúng thỏa ước đảng cộng sản Việt Nam bắt buộc phải cất bỏ hàng rào bảo vệ các
cơ sở quốc doanh kém hiệu năng hiện nay.
Bản thỏa ước buộc Việt Nam chấp thuận các qui tắc kế toán và điều hành công ti theo tiêu chuẩn quốc tế và thúc đẩy tiến trình tư nhân hóa
các ngành kỹ nghệ nhà nước đang kiểm soát. Lĩnh vực tư sẽ
được phát triển và khuyến khích. Và nếu quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam với các nước khác cũng theo cùng
tiêu chuẩn thì Việt Nam có nhiều cơ hội hội nhập vào sinh hoạt kinh tế trong vùng
và thế giới. Chỉ khi đó Việt Nam mới có một nền kinh tế xứng hợp với khả
năng thiên nhiên của mình. 
Một Thế Cân Bằng
Tế Nhị 
 Mặc dù Việt Nam chưa
xác lập chính sách đối với Hoa Kỳ và Trung quốc, và còn dè dặt đối vơi sự hội
nhập quốc tế, một thành phần trong bộ máy cầm quyền tại Việt Nam bắt đầu mất
kiên nhẫn vì sự cô lập của Việt Nam. Đối với giới chủ trương
cởi mở và thành phần trẻ có học Hoa Kỳ tương trưng cho nếp sống văn minh.
Kỹ thuật, đại học, lối sống của Hoa Kỳ được giới này ưa
thích. Giới trẻ thích đi Mỹ và Âu châu. Đối với giới bảo thủ và phần lớn thành phần có trách nhiệm mặt
chính trị thì Hoa Kỳ có một cái gì đó làm họ ngại trong một thế giới chưa ổn
định. Các viên chức trong bộ máy quân sự và an
ninh nghi ngờ rằng người Mỹ gốc Việt ghét chế độ cộng sản sẽ tìm cách gây rối
loạn tại miền Nam Việt Nam như tại Kosovo. Tuy nhiên người Mỹ du lịch tại Việt Nam thấy người Việt Nam tỏ ra có thiện cảm với Hoa Kỳ, một nước đã bỏ bom trải thảm
trên đất nước của họ (Chú thích của người dịch: không như người Serbia thù ghét người Mỹ). Hình như người Việt Nam cố quên cuộc chiến bạo tàn đã chấm dứt
hơn một phần tư thế kỷ. 
Quan hệ Việt-Mỹ nguội lạnh trong hai thập
niên sau khi chiến tranh chấm dứt. Năm 1994 tổng thống Clinton bãi bỏ cấm vận sau khi công nhận rằng
Việt Nam đã có thái độ hợp tác tìm kiếm quân nhân
Mỹ mất tích trong cuộc chiến. Năm 1995
Mỹ Việt thiết lập bang giao. Cựu dân biểu Pete Peterson, người phi công Mỹ từng
bị tù 6 năm tại nhà lao hỏa lò Hà Nội được cử làm đại sứ  tại Việt Nam. Tiến trình
hai nước xích lại gần nhau tiếp diễn nhưng hai bên vẫn canh chừng nhau. Tháng 9 năm 1999 các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tỏ ra khó chịu khi bộ trưởng ngoại
giao Madeleine Albright thăm Hà Nội và nói về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. 
Tháng 3 năm 2000 William Cohen, bộ trưởng
quốc phòng Hoa Kỳ đầu tiên đến chính thức thăm viếng Việt Nam. Việt Nam đã từ chối hai lần trước đó. Kết quả chuyến thăm viếng, Hoa Kỳ đồng ý cung cấp dụng cụ
gỡ bỏ ước chừng 3.5 triệu quả mìn chiến tranh còn để lại, thiết lập chương
trình cùng nghiên cứu tác dụng còn tồn tại của chất hóa học da cam, và tìm kiếm
quân nhân Mỹ còn trong danh sách mất tích. Việt Nam cũng yêu cầu Hoa Kỳ cung cấp dữ kiện tìm
kiếm mấy trăm nghìn quân nhân thuộc bộ đội miền Bắc còn mất tích. Hai bên cũng đã thảo luận khả năng tiếp
xúc quân sự ở cấp thấp. Nhưng Việt Nam nói rõ họ chưa sẵn sàng bàn chuyện an
ninh và chính sách đối ngoại chung với Hoa Kỳ. 
Chuyến thăm viếng của tổng thống Clinton sẽ tạo nên một bước quan hệ mới giữa hai
nước. Nhưng chuyến viếng thăm ảnh hưởng
đến tâm lý Mỹ hay giúp thay đổi thực tế Việt Nam là một câu hỏi chưa có câu trả lời. 
Khi ngồi vào bàn làm việc với Hoa Kỳ, Việt
Nam không quên ngoái cổ ra sau xem Trung quốc
nhăn nhó như thế nào. Vì
ngại phản ứng của Trung quốc nên sự xích lại gần giữa Việt Nam và Hoa Kỳ rất chậm. Trung quốc là một nước khổng lồ bên cạnh,
ảnh hưởng mỗi ngày một lớn tại Á châu và có một quan hệ lịch sử sóng gió với
Việt Nam. Hai nước thường đánh nhau trong suốt lịch sử dài 1000 năm và lại
đánh nhau sau khi Việt Nam thống nhất. Năm 1979 Trung quốc tiến quân sang biên giới Việt Nam nói là để "dạy cho Việt Nam một bài học" sau khi Việt Nam xua 200.000 quân sang lật đổ chế độ Polpot thân Trung quốc
tại Miên. Năm 1988 hai nước lại đụng độ nhau tại quần đảo Trường Sa. Cuối năm 1999 hai nước ký thỏa ước về
ranh giới trên đất liền và sẽ ký thỏa ước về ranh giới trong vịnh Bắc việt một
ngày gần đây. Tuy nhiên Việt Nam và Trung quốc vẫn còn kèn cựa về chủ quyền hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một vùng được biết có nhiều dầu hỏa. 
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết làm cho Hà Nội không có con
đường thoát nào hơn là làm lành với Trung quốc. Việt Nam nỗ lực thiết lập lại bang giao đầy đủ với
Trung quốc qua các cuộc thăm viếng thân hữu cấp cao và ký nhiều thỏa ước linh
tinh. Tuy nhiên Việt Nam vẫn cảnh giác
đối với Trung quốc như  đối với Hoa Kỳ.
Giới bảo thủ, nhất là giới bảo thủ trong quân đội xem Trung quốc là một đồng
minh cùng chủ thuyết có giá trị còn lại. Giới cởi mở, nhất là giới cởi mở trong
bộ Ngoại giao thì lo ngại Trung quốc trở thành một mối đe dọa lớn cho Việt Nam
trong vòng một hay hai thập niên tới sau khi xây dựng xong sức mạnh quân sự,
nhất là hải quân. Xích mích có nguồn gốc lịch sử giữa Việt Nam và Trung quốc vẫn còn đó. 
Trong những năm gần đây Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều
nước. Năm 1995 Việt Nam gia nhập Hiệp Hội các nước Đông Nam Á và
bình thường hóa quan hệ với từng nước hội viên. Sau hội nghị thượng đỉnh của các nước nói tiếng Pháp tại Hà
Nội năm 1997 (Chú thích của người dịch: ở Việt Nam hiện nay không mấy người nói được tiếng Pháp!) Việt Nam mở rộng quan hệ với Pháp. Việt Nam có quan hệ tốt với Cuba và các nước từng ở trong khối Liên xô tại
Đông Âu. Tuy nhiên chính sách ngoại giao
quan trọng nhất của Việt Nam trong dài hạn là làm sao cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung
quốc. 
Ước Vọng Thay Đổi 
Sau 80 năm bị Pháp đô hộ, gần 20 năm chiến tranh, 15 năm cô
lập sống bằng chi viện của Liên bang Xô viết, và 10 năm trôi nổi như một nước
cộng sản trong một thế giới không cộng sản, Việt Nam đang đứng trước một ngã ba
đường. Việt Nam sẽ theo mẫu Thái Lan hay cải biến
theo mẫu Trung quốc? Hay không làm gì cả để rơi vào bóng tối như  Miên và Lào? Trong 4 nước bị phân chia
do thế chiến II và chiến tranh lạnh Việt Nam thống nhất trước nhất,  nhưng so với Đức, Đài Loan và Nam Hàn,
Việt Nam thê thảm nhất. Và lúc này gần như đang
nằm trong cùng một sọt rác với các nước cộng sản Bắc Hàn, Lào và Cuba. 
Muốn sống còn Việt Nam phải thay đổi. Câu hỏi là: Thay đổi thế nào? Biến cải trong hòa bình hay
cách mạng. Quan sát một cách hời hợt vội vàng, nhìn vào đám đông sống động, xe honda và quán cà phê người ta nói thế hệ trẻ sẽ vươn lên
thay thế lớp già cổ hủ. Nhưng sự lạc quan này quá đơn giản để trở thành sự
thật. Đúng, lớp già của thời nói tiếng Pháp từng lãnh đạo
quốc gia qua hai cuộc chiến tranh và thống nhất đất nước sẽ chết đi.
Nhưng lớp tuổi từ 40 đến 60 đang thay thế dần nhiệm vụ lãnh đạo cũng không muốn
từ bỏ quyền hành và đặc ân đặc lợi do chức vụ mang lại. Thành
phần trẻ này từng du học tại Moscow và Đông Âu vẫn muốn bám vào cái khung
"đảng". Thành
phần lớn lên trong không khí hòa bình và cởi mở của thập niên qua còn phải chờ.
Vẫn còn vấn đề là, trong giới trẻ này con cái của các đảng
viên sẽ nắm ưu thế. 
Lề lối thay đổi truyền thống của Việt Nam là biến cải hòa bình. Do đó con đường Việt Nam theo có lẽ là con đường thay đổi
thể chế từ bên trong. Khó thấy có triển vọng đảng cộng sản
Việt Nam sụp đổ như đảng cộng sản Liên xô trong 10
năm tới. Nhưng không
ai đoán được cái gì sẽ xẩy ra. Tức nước vỡ bờ.
Thôn quê nếu tiếp tục đói kém và tham nhũng lộng hành có thể sẽ đứng lên đấu
tranh chống lại các Ủy ban "nhân dân" địa phương. Tại
các thành phố lớn, dân từ nông thôn về kiếm việc làm sinh ra nạn thất nghiệp và
bất ổn. Và giới trẻ có học  bất mãn với chế độ cũng muốn có sự
thay đổi căn bản và nhanh chóng. Đó là những yếu tố của cách
mạng. Vị trí lãnh đạo của đảng cộng sảnViệt Nam không thể tiếp tục dựa vào công lao
chỉ đạo thành công các cuộc chiến tranh trong thế kỷ qua. Bước
vào thế kỷ tới đảng phải tranh thủ tính chính thống bằng cách làm cho nước giàu
dân mạnh. Đảng cộng sản Việt Nam gồng mình được bao lâu trước áp lục này
trước khi chịu chấp nhận một chế độ chính trị đa nguyên là điều không ai tiên
đoán được. 
Thực tế cho thấy triển vọng một cuộc cải
tổ kinh tế và chính trị vẫn còn xa.
Nhưng nếu không cải tổ sớm Việt Nam càng bị bỏ xa sau các nước trong Hiệp Hội
các nước Đông Nam Á vừa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và đang vươn lên. Ngay
Trung quốc cũng bước nhanh hơn vào con đường kinh tế thị trường. 
Việt Nam có tất cả khả năng để giàu mạnh, phú
cường và dân chủ. Câu hỏi then chốt là:
Bao giờ? (Dec.
2000)
 
 
  | Trần Bình Nam | http://www.vnet.org/tbn |