VIỆT NAM VÀ BÃO TỐ KINH TẾ 1998

                    

Trần Bình Nam

Tháng 7 năm 1997 Thái Lan, sau đó Đại Hàn, Indonesia đua nhau khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng dây chuyền đang làm cho Singapore, Đài Loan, Hồng Kông (14) và Trung quốc thấm mệt.

Thoạt đầu giới kinh tế ít nói đến ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với Việt Nam. Người ta chú ý đến hậu quả kinh tế có thể có đối với Trung quốc và Nhật Bản vì đó là hai nền kinh tế lớn ở Á châu có tầm vóc quốc tế.

Ít nói đến Việt Nam vì người ta cho rằng kinh tế Việt Nam quá nhỏ và chưa qua thời kỳ cất cánh nên không đáng kể. Nhưng kinh tế Việt Nam quan hệ chặt chẽ với các nền kinh tế Đông Nam Á và hệ thống tài chánh Việt Nam mang tất cả mầm mống đang gây bệnh cho Thái, Đại Hàn và Indonesia như luật lệ thiếu phân minh, các ngân hàng lớn cho vay trên căn bản quan hệ với thế lực chính trị, chưa nói riêng Việt Nam vốn đầu tư chính yếu là của nước ngoài và không có tiền để dành, hay có nhưng nằm dưới dạng vàng và đồng mỹ kim dân chúng cất kỹ, nên Việt Nam cũng không thể nằm yên ngoài cơn khủng hoảng.

Hình như cơn khủng hoảng đã tới và chỉ là vấn đề thời gian để thấy tất cả tác dụng tai hại của nó. Hơn nữa thời gian trước cơn khủng hoảng toàn diện này, kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu không lành mạnh riêng, mặc dù phát triển nhanh trong mười năm qua.

Tình trạng kinh tế trì trệ được ông Nguyễn Tấn Dũng, Phó thủ tướng chính phủ đặc trách kinh tế tài chánh trình bày không úp mở trước Quốc hội ngày 22/4 (1), sau đó ngày 5/5 ông Lê Khả Phiêu nhìn nhận trong cuộc họp báo đầu tiên của ông ở chức vụ Tổng bí thư. Ông Phiêu so sánh tình hình kinh tế Việt Nam như một con thuyền nhỏ sắp đi vào một vùng biển nhiều bất trắc, nhưng như thường lệ của những người làm chính trị, ông ta trấn an "chúng ta sẽ biết đường đi để tránh hiểm nguy." (2)

Nguyên nhân khách quan đưa đến trì trệ kinh tế được ông Dũng nêu ra gồm trước hết do việc các nước Đông Nam Á giảm đầu tư khi bị khủng hoảng tài chánh. Thứ hai các quốc gia bị khủng hoảng giảm giá tiền tệ của mình để tăng xuất cảng, trong khi Việt Nam cố giữ giá đồng bạc (chỉ giảm tượng trưng 15%) nên giá các mặt hàng xuất cảng lên cao so với mặt hàng của các nước khác (10)

Ông Nguyễn Tấn Dũng nghiêm khắc nêu ra các nguyên nhân chủ quan: tham nhũng, nạn thư lại giấy tờ, hệ thống ngân hàng vừa kém hiệu năng, vừa cho vay dưới áp lực chính trị, bà con quen biết, ăn chia thiếu bảo đảm. Điều đáng để ý là ông Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận các tệ trạng này không phải là mới và nguyên nhân do căn bản điều hành kinh tế của chính phủ (1). Có thể ông Nguyễn Tấn Dũng muốn nói đến sự lỗi thời của nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" nhưng chưa tiện nói thẳng.

Ông Nguyễn Tấn Dũng nêu ra 4 lĩnh vực kinh tế bị trì trệ: vật liệu truyền thông, phân bón, điện tử và hàng không. Nhân viên lương cao trong mọi ngành kỹ nghệ bắt đầu được cho nghỉ việc nhất là các ngành kỹ nghệ do vốn nước ngoài, đặc biệt nơi nào có vốn của Đại Hàn (3)

Thực phẩm trở thành vấn đề nghiêm trọng. Việt Nam được tiếng là nước xuất cảng gạo nhưng ông Dũng nói, xuất cảng gạo và lương thực thu được ngoại tệ nhưng vấn đề là trong nước có đủ lương thực không? Câu hỏi này rất thực tế vì hiện nay một số vùng đã có dấu hiệu thiếu ăn.

Tin chính thức do Ủy ban Hành chánh tỉnh Gia Lai ở cao nguyên miền Trung thông báo hiện có gần 8,000 gia đình tổng số nhân khẩu lên đến 40.000 người thiếu ăn vì hạn hán (4). Và trận bão Linda giết hại gần 2.000 người tại vùng châu thổ sông Cửu Long làm cho nhiều vùng tại miền Nam Việt Nam vốn thừa thực phẩm bắt đầu thiếu ăn.

Ông Dũng nói trong 3 tháng đầu năm 1998 khả năng xuất cảng của Việt Nam đến các nước Đông Nam Á trung bình giảm 48%, đến Trung quốc giảm 20% và đến Nam Hàn giảm 60% (3), và tình trạng giảm xuất cảng sẽ nặng hơn trong những tháng tới. Mức xuất cảng dầu thô, nguồn xuất cảng cao nhất của Việt Nam cũng giảm do giá dầu quốc tế giảm, kế tới là sụt giảm lượng xuất cảng áo quần, dày dép. Chỉ có mức xuất cảng gạo và cà phê không giảm, nhưng chính quyền Việt Nam sẽ giảm lượng lúa xuất cảng để chuẩn bị cứu đói. Công ti tư nhân bị thiệt hại nhiều nhất vì khi giảm xuất cảng nhà nước dành ưu tiên xuất cảng cho các cơ sở quốc doanh. Công ti tư cũng khó vay tiền của nhà nước để qua cơn khó khăn hơn, trong khi chính lĩnh vực tư có nhiều khả năng nhất để phục hồi kinh tế (5)

Các nhà kinh tế - dù lạc quan - cũng tiên đoán rằng ít nhất trong 12 tháng tới khi Đại Hàn, Thái Lan, Indonesia thi hành các điều kiện của IMF để được trợ giúp, họ thu mình giải quyết vấn đề kinh tế nội bộ sẽ giảm đầu tư hơn nữa, nhất là đầu tư tại Việt Nam với bao nhiêu vấn đề nhức đầu về hành chánh và luật lệ thiếu phân minh ràng buộc, Việt Nam sẽ trải qua một khó khăn kinh tế lớn không khác tình trạng giữa thập niên 1980.

Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu sự khó khăn này như chúng ta thấy xuyên qua báo cáo của Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước quốc hội, cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên (10) và họp báo của ông Lê Khả Phiêu, các lời tuyên bố của thủ tướng Phan Văn khải (9) v.v...

Các biện pháp cứu nguy gồm trước hết là việc bổ nhiệm Nguyễn Tấn Dũng làm thống đốc ngân hàng kể từ ngày 7/5/98. Từ trước đến nay thống đốc ngân hàng trung ương thường ở cấp bộ trưởng. Nay ông Dũng là Ủy viên Chính trị bộ, đệ nhất Phó thủ tướng (6) và là người chỉ trích nghiêm khắc

tài chánh và ngân hàng Việt Nam trước quốc hội cho rằng hệ thống tài chánh và ngân hàng luộm thuộm từ trước đến nay đe dọa sự ổn định kinh tế trong nước, nhất là nợ của các ngân hàng thương mãi, và chỉ trích việc chính quyền cấp tỉnh áp lực ngân hàng cho vay bừa bãi các công ti công quản địa phương có quan hệ ăn chia (7). Việc bổ nhiệm cho thấy đảng cộng sản Việt Nam muốn cải tổ lĩnh vực trọng yếu này, một lĩnh vực Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) than phiền nhất (8)

Thứ hai đóng cửa và giải tư các công ti quốc doanh thua lỗ, nguồn tiêu tiền của ngân sách quốc gia. Ông Dũng tiết lộ trước Quốc hội rằng 150 cơ sở quốc doanh (trong 6.000 cơ sở hiện nay) phải được giải tư xong trong năm 1998 (3). Tiếp theo là các biện pháp cụ thể thi hành Quyết Định Chính Phủ số 91 do thủ tướng Phan Văn Khải ban hành. Các biện pháp này đề ra các bước giải tư dần các cơ sở quốc doanh do trung ương kiểm soát kể cả ngành dầu thô, dụng cụ truyền thông, bưu điện, hàng không, chuyển chở đường biển và hỏa xa. Cơ sở nào không cần nhà nước kiểm soát hoàn toàn phải hoàn tất giải tư 20% trước cuối năm 1999. Công ti vốn dưới 100.000 mỹ kim có thể bán đấu giá, cho dân chúng hay những người đang quản trị và thợ thuyền làm ở đó thuê. Công ti vốn trên 100.000 mỹ kim phải thiết lập kế hoạch giải tư trình chính phủ (9)

Thứ ba, cho phép đảng viên tham gia sinh hoạt kinh tế cá thể và cho nông dân canh tác nhiều hơn mức luật định 5 mẫu (10), mặc dù chưa ấn định bao nhiêu trên 5 mẫu. Riêng việc cho đảng viên kinh doanh cá thể vượt xa hơn các biện pháp cởi mở kinh tế của Trung quốc. Một số người cho rằng có thể đây là biện pháp chuẩn bị cho đảng viên trường hợp phải chấp nhận bầu cử tự do.

Thứ tư, san bằng sự chênh lệch kinh tế giữa thành thị và thôn quê. Thôn quê Việt Nam nghèo khó là mối bận tâm của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) và sẽ là căn bản trợ giúp Việt Nam trong năm 1999 (11). Sự chênh lệch đang trở nên trầm trọng về hai mặt: dân bỏ thôn quê tìm đường lên thành phố làm mất nhân lực canh tác và tạo bất ổn định ở các trung tâm đông dân cư; thứ hai là dân bất mãn. Ông Nguyễn Tấn Dũng, trong báo cáo trước Quốc hội xem đây là một vấn đề chính trị nếu không giải quyết kịp thời sẽ biến thành rối loạn (3). Vụ bất ổn ở tỉnh Thái Bình xẩy ra trong tháng 5/97 tạm thời giải quyết được, nhưng nếu nhiều tỉnh, nhất là các tỉnh miền Hậu giang quần chúng đứng lên công khai đòi hỏi công bình xã hội và cơm áo thì không biết chính quyền Hà biết sẽ giải quyết ra sao.

Tình hình xuống dốc của kinh tế Việt Nam có cách giải quyết không? Điều này tùy thuộc vào chính quyền cộng sản hiện nay.

Các biện pháp giải quyết đã đưa ra có thể đúng, nhưng vấn đề là đảng cộng sản Việt Nam có khả năng và ý chí thực hiện không? Trả lời câu hỏi trên mỗi người một khác, bi quan nhiều hơn lạc quan. Đây không phải lần đầu nhà cầm quyền cộng sản nêu ra các giải pháp hợp lý. Nhưng đã nhiều lần nói mà không làm hoặc không làm được. Họ không làm được không phải vì thiếu người tài. Họ không làm được vì hệ thống chính trị ràng buộc họ lại với nhau. Cái gì đảng cũng muốn nắm toàn quyền, lấy quyết định tùy lúc, tùy thời, đôi khi tùy hứng, không theo qui luật và không dựa trên căn bản dài hạn, và trên hết lo sợ mất quyền ngồi trên đầu trên cổ của nhân dân.

Họ đã tạm cởi mở để sống còn trong cơn dầu sôi lửa bỏng giữa thập niên 1980 với chiêu bài "kinh tế thị trường nhiều thành phần theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa", một chiêu bài trống rỗng. Cuối cùng vế "kinh tế thị trường" để cán bộ đảng viên tự do làm giàu, còn vế "xã hội chủ nghĩa" để dân tự do bị bóc lột và đói rách. Chính sách của đảng cộng sản Việt Nam đã làm các nhà đầu tư nước ngoài 5, 6 năm trước hăm hở đến Việt Nam làm ăn trở nên chán nản (12) trong đó có các nhà đầu tư Mỹ, nguồn đầu tư Hà Nội chờ đợi nhất.

Người lạc quan có thể nghĩ: Nếu đảng cộng sản Việt Nam biết xoay xở để vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế và chính trị giữa thập niên 1980, họ sẽ vượt qua cơn bão táp sắp tới. Thực tế có thể không đơn giản như vậy. Nếu ví Việt Nam như một con bệnh thì năm 1986 con bệnh chỉ thiếu máu được tiếp huyết là sống, còn năm 1998 cơ thể con bệnh vừa bị nhiễm trùng vừa bị xuất huyết không cầm máu được.

Tuy nhiên bệnh hiểm thì có thuốc tiên nếu những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của đảng để bốc thuốc. Có hai phương thuốc: khách quan và chủ quan. Chủ quan, Việt Nam cần một người hùng dám chấp nhận dân chủ, giỏi hơn là Trần Xuân Bách hữu dõng vô mưu, giỏi hơn tướng Võ Nguyên Giáp, có thể nướng hằng trăm ngàn lính ngoài chiến trường không nương tay để tên tuổi được ghi vào danh sách các danh tướng trên thế giới nhưng bản chất nhu nhược, giỏi hơn Nguyễn Văn Linh, muốn đất nước vươn lên nhưng chỗ ngồi của mình lớn hơn nhân dân và đất nước. Còn Lê Khả Phiêu và bộ ba Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng thì sao? Cho đến lúc này chưa có dấu hiệu gì khích lệ. Nhưng hãy cầu nguyện (13)

Điều kiện khách quan là sự trợ lực của lực lượng tự do trên thế giới. Ai sẽ đến giúp Việt Nam? Không phải Trung quốc, lại càng không phải Liên bang Nga, cũng sẽ không phải là Nhật Bản.

Chỉ còn lại Hoa Kỳ. Và đây là cơ hội để Hoa Kỳ thúc đẩy cuộc cải tổ chính trị tại Việt Nam, nếu Hoa Kỳ nhận ra đây là một cơ hội. (June 1998)

 Tài liệu tham khảo:

1. AP, 21 Apr. 1998. "Vietnam Sees Hard Times Ahead" by Paul Alexander

2. AP, 5 May 1998. "Vietnam's Phieu Compares Country To Boat Near Cliffs"

3. Dow Jones, 21 Apr. 1998. "Vietnam Export to Singapore Dn 69%, Not 15%"

4. AFP, 27 Apr. 1998. "Nearly 40,000 Vietnamese threatened with famine due to drought"

5. The Wall Street Journal, 28 Apr. 1998. "Asia Crisis Impedes Vietnam's Road to Industry"

6. The Wall Street Journal, 7 May 1998. "Senior Minister Will Be Named Chief of Vietnam's Central Bank"

7. Reuters, 21 Apr. 1998. "Vietnam to clamp down on risky banking practices"

8. AP, 7 May 1998. "IMF: Vietnam Reform Process Slowed, 'Deterioration' Seen"

9. The Saigon Times Daily, 27 Apr. 1998. "Vietnam" Large State corporations will go public."

10. AP, 27 Apr. 1998. "Vietnam Sticks to 9% Econ Growth Estimate for 1998"

11. The Asian Wall Street Journal, 28 Apr. 1998. "Poverty in Vietnam Becomes Top Priority For the World Bank"

12. Baron's, 4 May 1998. "A Return Visit to Earlier Stories: Cooled Ardor: vietnam disappoints funds" by Neil A.         Martin

13. Asiaweek, 15 May 1998. "A Season of Discontent" by Roger Mitton.

14. "Hong Kong: Now the Hard Part" (Far Eastern Economic Review, Jun. 11, 1998)

 


Trần Bình Nam

http://www.vnet.org/tbn