Việt Nam có thể trở thành một
nước tiên tiến vào năm 2020 không ?
Trần Bình Nam
          
Việt Nam đang tiến hay lùi?  Đó là một câu hỏi lớn, và câu trả lời không
đơn giản. Theo một bài bình luận (Asia’s
other miracle – [xem phóng dịch cuối bài]) và một bản nghiên cứu dài 14
trang (Half-way from rags to riches)
đăng trên tạp chí The Economist số
ngày 26/4-2/5/2008 thì hình như Việt Nam đang tiến bộ mọi mặt và đáng làm gương
cho các nước khác để ra khỏi tháp ngà của mình, ít nhất là Bắc Hàn và Miến
Điện, và cho rằng với vài điều chỉnh chế độ chính trị Việt Nam có thể trở thành
một quốc gia tiên tiến vào khoảng năm 2020 như mục tiêu của các nhà lãnh đạo
tại Hà Nội. Bài báo viện dẫn thí dụ của Đài Loan, của Nam Hàn và nhất là của
Singapore để cho rằng chế độ độc tài tại Việt Nam hôm nay không phải là trở
ngại chính cho sự tiến bộ. Cho đến thập niên 1980 Nam Hàn và Đài Loan còn dưới
chế độ độc tài, nay đã vươn lên thành những nước dân chủ tiên tiến. 
Nhưng sự so sánh có tính gượng ép,
khập khiểng ở nhiều điểm. Các nước Đài Loan, Nam Hàn và Singapore có một bản
hiến pháp đa đảng, và đảng của các ông Pak Chung Hee (ở Nam Hàn), Tưởng Kinh
quốc (ở Đài Loan), ông Lý Quang Diệu (ở Singapore) đã được lòng dân nên luôn
luôn thắng và thắng lớn trong các cuộc bầu cử nên có thể thi hành những chính
sách mạnh (và dư luận quốc tế xem là độc tài). Trong khi đó tại Việt Nam hôm
nay sự độc tài của đảng cộng sản được ghi vào hiến pháp (Điều 4) và không có
một đảng nào có quyền hợp pháp tranh quyền với đảng cộng sản. Nhân dân các nước
Đài Loan, Nam Hàn, Singapore từng ủng hộ sự cầm quyền và các chính sách của các
ông Pak, ông Tưởng, ông Lý, trong khi nhân dân Việt Nam chỉ muốn cất bỏ cái ách
cai trị khó chịu của đảng cộng sản Việt Nam.
Điểm khập khiểng thứ hai là những
người lãnh đạo Nam Hàn, Đài Loan, Singapore dùng sự độc tài như một phương tiện
để tiến nhanh đến sự cải thiện điều kiện kinh tế và xây dựng tiềm năng của đất
nước, trong khi đảng cộng sản Việt Nam không có một mục tiêu nào khác hơn là
nhắm mắt theo giáo điều Mác Lênin mà họ, vì ấu trĩ, nghĩ là chiếc đũa thần sẽ
kiến tạo một thiên đàng địa giới tại Việt Nam. Nhìn lại từ năm 1954 sau khi
chia đôi đất nước, ông Hồ Chí Minh (và sau này là những người cộng sản hậu duệ
ông) tiến hành cuộc chiến tranh tại miền Nam nói là để thống nhất đất nước.
Thống nhất xong tiến hành xây dựng “xã hội chủ nghĩa” để chỉ hơn 11 năm sau
ngày thống nhất đưa cả nước đến bờ vực thẳm của đói nghèo. Nếu không có cuộc
cải tiến đường lối kinh tế tại Trung quốc của Đặng Tiểu Bình vào thập niên 1970
và cởi mở chính trị “glasnost” và cải
tổ hành chánh “perestroika” của
Gorbachev tại Liên bang Xô viết, Việt Nam đã không “đổi mới” năm 1986 . Đổi mới, và sau này khi Liên bang Xô viết sụp
đổ, nguồn viện trợ không còn, Việt Nam phải mở cửa và chấp nhận kinh tế thị
trường để sống còn .
Sau khi mở cửa, những người lãnh đạo
thấy có cơ hội làm giàu nhờ tham nhũng họ đã biến cả một đảng chính trị thành
một tập đoàn “mafia” tham nhũng có công an, quân đội và một hệ thống tòa án yểm
trợ sau lưng . 
Điểm thứ ba không kém phần quan trọng
là tư cách của người lãnh đạo. Trong suốt thời gian các lãnh tụ Pak Chung Hee,
Tưởng Kinh quốc và Lý Quang Diệu (và các người kế nhiệm họ) áp dụng một chế độ
độc tài để cứu nước, họ đã tỏ ra là những người lãnh đạo có tư cách cầm đầu một
chính phủ biết tự trọng. Họ bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ người dân và duy trì uy tín
cá nhân lãnh đạo trên trường quốc tế, những điều mà những người lãnh đạo đảng
cộng sản Việt Nam không làm hoặc không làm được (Một chính quyền bất xứng ). Tư cách của người
lãnh đạo được thấy rõ qua các hiệp định biên giới đất và vùng biển với Trung
quốc năm 1999, 2000, và gần đây qua việc Trung quốc sát nhập Hoàng Sa và Trường
Sa thành quận huyện của họ mà không một lời phản đối thích đáng cho thấy chính
quyền Hà Nội là một chính quyền tồi tệ nhất trong lịch sử cận đại của Việt Nam.
Nét huy hoàng bên ngoài của nền kinh tế Việt Nam không che dấu được những mục
nát bên dưới tấm áo ngoài mầu hồng lòe loẹt. Gần đây một sự kiện làm nổi bật sự
thiếu tư cách và thiếu tự trọng của lãnh đạo Việt Nam. Trước sự tố cáo của các
tổ chức bất vụ lợi trên thế giới về sự buôn bán phụ nữ của các nước Đông Nam Á
qua các cuộc hôn nhân trá hình, chính phủ Cambodia đã ra lệnh ngưng các cuộc
hôn nhân của phụ nữ Cambodia với người nước ngoài để điều tra sự việc. Và giữa
tháng 4/2008, một đại diện ngoại giao Trung quốc trong khi công tác tại
Cambodia đã chỉ trích đức Dalai Lama với những lời thóa mạ đụng chạm đến Phật
giáo là tôn giáo chính của Cambodia, chính phủ Cambodia đã lên tiếng phản đối
nhà ngoại giao Trung quốc mặc dù Trung quốc là một nước đang giúp đỡ Cambodia.
Chỉ những hành động đó chứng tỏ những người lãnh đạo Cambodia có tư cách hơn
những người đang lãnh đạo đất nước Việt Nam. Trước những sự việc tương tự Hà
Nội đã không có một động thái nào làm cho dân trong nước tự hào và thế giới nể
trọng . 
Thực tế của Việt Nam hôm nay là người
cầm quyền càng giàu, dân càng nghèo, bất công càng ngày càng lớn. Những cột
chống của một nước là giáo dục và y tế càng lúc càng sa sút . Môi sinh càng lúc
càng hư hỏng vì những kế hoạch phát triển chỉ là cơ hội để những người cầm
quyền thêm lợi nhuận. Những điều kiện xã hội bất xứng đưa đến đạo lý suy đồi
làm cho con người Việt Nam càng lúc càng ít sống tử tế với nhau. Tại Việt Nam
hôm nay, ngoại trừ một số nhà đấu tranh cho dân chủ luôn luôn bị bao vây và bị
đe dọa, chỉ còn lại cái ồn ào của một xã hội trong đó người dân thường đang vội
vàng sống, người có quyền vội vàng hốt tiền bỏ vào túi với những màn tuyên
truyền “phát triển, giàu mạnh” với sự hổ trợ của một hệ thống truyền thông cực
kỳ tinh vi trong tay đảng. Không có một chút gì giống với xã hội Nam Hàn, Đài
Loan hay Singapore trước khi các quốc gia này được xếp hàng là các quốc gia
tiên tiến. Một đất nước với một tập đoàn lãnh đạo như vậy thì làm sao có thể
biến cải thành một nước tiên tiến vào năm 2020 như đảng cộng sản Việt Nam
thường huênh hoang?
Chỉ có một con đường cho đảng cộng sản
Việt Nam là cải tổ chính trị, chia sẻ trách nhiệm với người dân thì may ra mới
thoát khỏi cơn nguy biến trước mắt. Họ sẽ tự cứu và cứu dân tộc. Nếu không cái
họa mất nước không còn xa, vì Hán quân đã chờ ngoài biên ải,và bên trong thì
bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc đã sẵn sàng. Chiếc áo mầu hồng của bài báo
“Asia’s other miracle” trên tờ The
Economist  không che đậy được một tấm
thân mục nát chỉ chờ ngày giờ để gục xuống.
          
Trần Bình Nam
April 28, 2008
Phóng dịch bài báo “Asia’s other
miracle” của  The
Economist
April
26 – May 2, 2008
          
Trước đây khi nói đến Việt Nam, người
ta nghĩ đến “thuyền nhân”, vì trong suốt hai thập niên sau năm 1975 từng đoàn
thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi  chạy
trốn một chế  độ độc tài và một nền kinh
tế suy sụp. Mọi sự đã thay đổi. Nhiều thuyền nhân đã trở về làm ăn trong một
nước Việt Nam đổi mới. Việt Nam bây giờ là một trong những nước đang phát triển
nhanh ở Á châu, với đà tăng trưởng 7.5% trong suốt thập niên qua, nếu có thua
chỉ thua đà tăng trưởng của Trung quốc, nhưng trái lại Việt Nam đã thành công
trong việc xóa đói giảm nghèo hơn Trung quốc. Dự phóng tăng trưởng 9% của Việt
Nam cho năm 2008 chắc sẽ không đạt được vì lạm phát trên 10% và cán cân mậu
dịch thâm thủng, nhưng tương lai kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hứa hẹn .
Các thành phố Việt Nam phát triển
trông thấy, và thôn quê (nơi đa số 85 triệu người dân sinh sống) cũng không
thua đời sống nông thôn ở Thái Lan bao nhiêu, mặc dù Thái Lan được xem là nước
giàu hơn. Từ một nước bị nạn đói đe dọa (giữa thập niên 1980), Việt Nam nay là
một trong những nước sản xuất gạo trên thế giới, và Phi Luật Tân quốc gia một
thời được xem là nước giàu thứ nhì ở Á châu đã phải mua gạo của Việt Nam. Ngân
hàng Thế giới (World Bank) đã xem Việt Nam là nước mẫu mực trong sự phát triển
kinh tế và xã hội. Khách du lịch ồ ạt đến Việt Nam và các công ty đa quốc đều
muốn đầu tư làm ăn tại Việt Nam. Trên mặt quốc tế Việt Nam cũng có thêm uy tín.
Tháng 7 năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc .
Việt Nam đang có cái thế làm gương cho
các nước khác như Bắc Hàn và Miến Điện làm thế nào để giảng hòa với các cựu
thù, làm thế nào để mở cửa giao thương với thế giới và làm thế nào để thoát ra
khỏi một bộ máy kinh tế bệnh hoạn. Việt Nam cũng có thể là cái gương về sự
thành công của tự do giao thương (trong khuôn mẫu của Tổ chức Mậu dịch Thế
giới) để giải quyết vấn nạn đói nghèo, và làm cho các nước đang phát triển hoặc
đã phát triển có thái độ tích cực hơn trong các vòng thương thuyết Doha.
Tuy thành công, Việt Nam vẫn chưa hài
lòng và muốn trở thành một quốc gia giàu hơn, tiên tiến hơn về khoa học kỹ
thuật vào năm 2020. Với đức tính kiên nhẫn và thông minh thiên phú, Việt Nam có
thể thành công với điều kiện Việt Nam biết học bài học của các nước lân bang
(như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore).
Trước hết bộ mặt của Việt Nam đã chỉ
thay đổi sau 20 năm kể từ năm 1986 khi đảng cộng sản Việt Nam chấp nhận kinh tế
thị trường và tự do giao thương. Hợp tác xã được dẹp bỏ, nông dân được cấp
ruộng để tự do canh tác và giá cả được để cho luật cung cầu xác định, và đến
năm 2000 kinh tế tư nhân và thị trường chứng khoán được chính thức nhìn nhận.
Và sau khi Việt Nam giảm thuế quan, xuất nhập cảng gia tăng biến Việt Nam thành
một thị trường quốc tế cởi mở nhất. Thực tế hôm nay là chính quyền cộng sản
không thể trở lui về đường lối bao cấp trước kia nếu muốn giấc mộng cường quốc
vào năm 2020 thành hiện thực.
Giống như  Nam Hàn, Đài Loan và nay là Trung quốc, Việt
Nam chứng tỏ rằng một chế độ độc tài vẫn có khả năng đưa đất nước ra khỏi đói
nghèo. Nhưng không phải là một sự ngẫu nhiên mà tất cả các nước giàu có phúc
lợi đầu người cao trên thế giới đều là những nước dân chủ. Tự do chính trị tự
nó là một giá trị cơ bản của con người cho nên không cần phải bàn cãi việc có
nên có tự do chính trị để phát triển kinh tế không. Và các nhà lãnh đạo cộng
sản Việt Nam cũng đã thấy rằng không thể điều hành một nền kinh tế phồn thịnh
bằng những phương pháp áp dụng cho một nền kinh tế chỉ huy. Đứng trước những
trục trặc kinh tế trong một quốc gia đang phát triển (như hiện nay) thì nước
nào có thị trường tự do về sản xuất, dịch vụ và ý kiến thì nước đó sẽ tìm ra
giải pháp giải quyết dễ dàng hơn. Nói tóm lại những quyết định kinh tế khó khăn
của chính quyền sẽ dễ được thi hành và có kết quả hơn nếu có ý kiến của người
dân .
Cho đến giờ này đảng cộng sản Việt Nam
vẫn cương quyết giữ độc quyền lãnh đạo trong tay. Họ bỏ tù những người đấu
tranh cho dân chủ mà họ gán cho là những kẻ khủng bố. Nhưng nếu theo gương Nam
Hàn hay Đài Loan, Việt Nam nên để ý kỹ con đường đi của Nam Hàn và Đài Loan.
Cho đến cuối thập niên 1980 hai quốc gia này vẫn còn là hai nước độc tài, nhưng
khi dân chúng phản kháng, họ thấy được trào lưu dân chủ và họ đã kịp thời dân
chủ hóa và đưa quốc gia đến chỗ phú cường. Việt Nam hình như muốn chọn mô hình
Singapore, nghĩa là đa đảng hóa trong một cái khung rắn chắc dưới sự kiểm soát
của đảng cộng sản. 
Đảng cộng sản Việt Nam cũng muốn mọi
người thấy rằng dân chủ như Thái Lan và Phi luật Tân với những xáo trộn chính
trị thường xuyên thì dân chủ chưa chắc là một điều tốt đẹp. Nhưng đành rằng dân
chủ không phải là điều kiện duy nhất và tất yếu để canh tân xứ sở, dân chủ vẫn
là điều không thể thiếu cho một quốc gia muốn vươn lên trong cộng đồng thế
giới. Thế hệ đang lãnh đạo tại Việt Nam hôm nay là con cháu của những chiến sĩ
từng đấu tranh cho nền độc lập và phú cường của nước nhà cần nghĩ đến thế hệ
lãnh đạo tiếp nối họ. Nếu thế hệ tới không tự ràng buộc trong kỹ luật, lại tham
nhũng hơn, xấu hơn mà vẫn bám lấy được quyền lực thì tương lai của Việt Nam
thật là mờ mịt.
Cho đến lúc này chưa có dấu hiệu gì sẽ
có bạo loạn chống lại chế độ độc tài toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng
khi quần chúng quen với tự do kinh tế và xã hội, viễn ảnh bạo loạn có thể xẩy
ra. 
Vậy đảng cộng sản Việt Nam còn chờ đợi
gì ? Còn gì đẹp bằng nếu chính các đồ đệ của ông Hồ Chí Minh được ghi vào lịch
sử là những người đã bắt đầu một cuộc cách mạng thứ hai mang ổn định, phú cường
và một nền tự do chân chính cho nhân dân Việt Nam./.
 
 
   
| Trần Bình Nam | http://www.tranbinhnam.com |