Bà
Linh
Trần Văn Sơn
Vào đề: Đây là chuyện thật ngoài đời với tên gọi nhân
vật và địa danh thay đổi. Chuyện viết đầu tiên vào tháng 9 năm 1998 sau khi tác
giả đi thăm bà Linh tại Âu châu dưới nhan đề “Người Chị Dâu”. Bà Linh vừa qua đời đầu tháng
4 năm 2012 tại Paris. Tang lễ cử hành ngày 11 tháng 4 năm 2012 tại nhà quàn
Mont Valerien, Nanterre. Nhà văn Bùi Bích Hà viết phần cuối chuyện khi được
nghe tác giả thuật lại.
**
Bà Linh trở mình thức
giấc. Ánh nắng chiếu qua màn cửa sổ, khiến bà cảm thấy ấm trên má. Bà Linh đoán
mặt trời bên ngoài đã lên cao lắm. Dưới vườn, ríu rít tiếng chim sẻ. Trong nhà,
không khí yên tĩnh, các cháu chắc đã đi học.
Về thăm quê lần này,
bà ở chơi lâu nên không vội vàng giờ giấc như những lần trước. Sáng nào bà cũng
dậy trễ, nằm lườn khươn trên giường, mơ màng đủ thứ chuyện trước khi bỏ chân
xuống đất, nhìn qua mình trong gương, chải chuốt đôi chút rồi xuống nhà bếp nói
chuyện với Thúy, cô em gái nhỏ hơn bà tới mười tuổi, hiện cùng chồng làm chủ
ngôi nhà do bố mẹ bà để lại.
Bà Linh rời khỏi ngôi
nhà hương hỏa này năm 26 tuổi, khi bà tái giá. Bà lấy chồng lần đầu năm 17
tuổi. Ông Bình, người bạn đời đầu tiên của bà, thương yêu bà rất mực. Tiếc
thay, số phận chỉ cho vợ chồng bà sống hạnh phúc bên nhau một năm rồi ông Bình
tử nạn. Phong ba bão táp dồn dập đổ xuống cuộc đời người sương phụ giữa tuổi
thanh xuân. Phải tám năm sau, bà mới nguôi ngoai và bước vào cuộc hôn nhân lần
thứ hai với Hùng, tạo lập một cảnh nhà an bình, sinh nở và nuôi dạy ba đứa con
chung. Sau biến cố năm 1975, bà Linh cùng gia đình di cư qua Thụy Sĩ. Hai vợ
chồng mua một căn nhà rộng rãi ở Geneve, cạnh bờ hồ Leman.
Bà Linh có ba anh chị
em, một anh trên, một em trai dưới và Thúy. Song thân bà qua đời đã lâu, để lại
di sản là ngôi nhà quen thuộc, nơi chứng kiến bà và các anh chị em lần lượt ra
đời, lớn lên bên nhau, nay để cho người em gái ở. Anh bà đi theo kháng chiến
rồi tập kết ra Bắc. Năm 1975, anh trở về, có quyền thế và cuộc sống bình ổn tuy
ít thân cận với các anh chị em. Riêng em trai bà, là sĩ quan quân đội Việt Nam
Cộng Hòa, đã hy sinh trong chiến tranh. Căn nhà bằng gỗ, cha mẹ tạo dựng đã lâu
nhưng còn vững chãi, chỉ có mái tranh hai năm phải lợp lại một lần. Xung quanh
nhà là khu vườn hai mẫu đất trồng nhiều cây ăn trái, mít và nhãn, nhiều nhất là
thơm và cau. Năm ngoái, khi trở về thăm nhà lần đầu, bà Linh đã giúp em gái
tiền lợp lại mái tranh mới.
Trước năm 1986, Thúy
và chồng làm việc cho một hợp tác xã đóng giày của thị xã Huế. Bà Linh về thăm
mấy lần, thấy cuộc sống chật vật của em gái, vợ chồng phải đi làm lao động suốt
ngày, để mặc con cái ở nhà lêu lổng và khu vườn cây ăn trái không ai chăm sóc,
bà đứng ra giúp em thuê người xới đất, làm cỏ, đào giếng, đặt bơm nước, chăm
bón lại khu vườn. Sau một năm, thấy hoa lợi đủ chi tiêu, hai vợ chồng xin nghỉ
việc hợp tác xã và dùng toàn thời giờ để săn sóc, khai thác khu vườn cây ăn
trái cũng như trồng thêm rau củ. Lợi tức khấm khá nên ngoài việc sinh sống và
tốn phí chăm bẵm vườn tược, Thúy còn dành dụm để trả dần vốn cho bà Linh. Có em
gái ở nhà, vừa quán xuyến gia đình vừa bầu bạn với chị, năm nay bà Linh quyết
định về ở chơi lâu.
Thường ngày quen dậy
trễ, hôm nay, bà còn dậy trễ hơn vì đêm hôm trước, bà trằn trọc không yên giấc,
lẩn quẩn trong đầu với ý nghĩ có nên đến thăm ngôi nhà bố mẹ người chồng vắn số
cũ, nơi cô Linh là bà ngày ấy, đã sống với chồng một tuần lễ ngắn ngủi trước
khi theo chồng vào Nam.
Ở tuổi mười bảy, Linh
nổi tiếng đẹp nhất làng, được nhiều thanh niên trong xóm ngấm nghé, tuy chỉ để
mơ ước nhiều hơn là hy vọng. Không những thế, gia cảnh nhà Linh sung túc, thân
phụ là một y tá lành nghề làm việc tại bệnh viện trung ương Huế, được làng xóm
kính nể. Thanh niên trong làng hầu hết con nhà nghèo, sống bằng nghề làm rẫy,
thợ mộc hay thợ hồ. Họ thích ngắm Linh, hát những câu ca dao trữ tình xa gần để
trêu ghẹo bâng quơ nhưng họ biết không bao giờ với tới được cô dù chỉ là mơ
tưởng.
Bình quê Kim Long, làm
việc ở Sài Gòn sau khi đỗ bằng Thành Chung. Mẹ Bình quen với mẹ Linh. Thấy Linh
đẹp, nết na, bà ngỏ ý xin cho con trai. Sau khi xem tấm hình Bình mặc âu phục,
khôi ngô, tuấn tú, với chiếc răng cời có duyên ẩn dưới nét môi nghiêm nghị của
cậu, mẹ Linh ưng ý ngay. Bà cẩn thận, đợi lúc thuận tiện mới khéo léo đưa tấm
hình cho Linh xem, ngụ ý cho con gái biết bà đã chọn được rể.
Tết năm đó, Bình theo
mẹ đến thăm gia đình Linh. Đứng ở phòng trong, Linh kín đáo nhìn Bình qua bức
màn vải mỏng trong khi hai bà mẹ vừa uống trà vừa chuyện trò với nhau một cách
tương đắc. Thỉnh thoảng, mẹ Linh hỏi Bình những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Linh
thấy Bình ngồi yên nghe, nhỏ nhẹ vâng dạ, nhưng ánh mắt không dấu được sự bồn
chồn chờ đợi. Linh chợt cảm thấy hài lòng và nhận ra cô cùng chia sẻ sự nôn nao
của người bên ngoài. Chưa từng yêu ai cho đến giây phút ấy, Linh yên tâm đón
nhận sự xếp đặt của mẹ. Giờ đây, Bình ngồi đó, đẹp trai, cao lớn, với chiếc
răng cời có duyên Linh đã thấy trên tấm hình, làm cho tâm hồn Linh rào rạt, mơ
tưởng chuyện yêu đương.
Bỗng Linh nghe tiếng
mẹ gọi: “Linh, con ra chào bác và anh Bình rồi giúp mẹ thu dọn ấm tách trà
nhé!” Chỉ đợi có thế, Linh vén vội mái
tóc, dịu dàng bước ra cúi chào mẹ Bình và đảo mắt liếc nhanh về phía Bình. Đôi
sóng mắt gặp nhau, người này cảm nhận ở người kia sự hài lòng dành cho nhau một
cách hồn nhiên.
Sáu tháng sau, Bình
xin về phép đặc biệt để tổ chức lễ cưới với Linh. Cưới xong, Linh về nhà chồng
một tuần lễ trước khi cả hai chuyển vào Nam. Hạnh phúc lứa đôi của họ chưa tròn
năm, họ cũng chưa kịp có con đầu lòng thì biến cố tới, chồng Linh bị lính Pháp
bắn chết khi chúng tái chiếm các tỉnh miền Nam năm 1946.
Góa bụa giữa cảnh loạn
ly, Linh vượt gian lao trở về quê với ý định ở với bố mẹ chồng cho phải đạo dâu
con. Linh thuật lại cho cha mẹ chồng biết hoàn cảnh Bình bị lính Pháp giết và
giải thích lý do tại sao Linh đã không tìm được xác chồng? Bố mẹ Bình quá đau
khổ trước tin dữ, quên cả nỗi đau khổ không kém của riêng Linh. Ông bà thống
trách con dâu lỗi đạo phu thê, nỡ bỏ chồng chết thảm, bơ vơ không có cả một mấm
mồ. Phần phẫn uất và tuyệt vọng vì chồng chết, phần gia đình bố mẹ chồng thiếu
thương yêu và hất hủi, Linh đành gạt nước mắt trở về nhà cha me ruột.
Nhiều năm sau Linh gặp
Hùng, người cùng làng. Thân phụ Hùng là giáo viên của chính phủ bảo hộ, được bổ
dạy học tại một tỉnh xa nên mang theo cả gia đình. Ở làng, ít ai biết rõ nguồn
cội xuất thân của Hùng, chỉ thỉnh thoảng thấy Hùng theo thân phụ về thăm quê.
Lần cuối cùng là vào năm 1943. Hùng gặp Linh khi đó trong dáng dấp một cô gái
vừa đến tuổi dậy thì. Khi ra đi, Hùng mang theo hình ảnh của Linh, lòng thầm
mong sẽ có một ngày trở về.
Thế nhưng Hùng đi biền
biệt. Lấy xong bằng cử nhân, Hùng thi tham vụ ngoại giao, sau đó được biệt phái
làm việc cho Ủy ban Văn hóa Liên hiệp quốc tại Sài gòn.
Hùng chỉ gặp lại Linh
năm 1954 tại Huế, khi về nghiên cứu kế hoạch trùng tu Đại nội trong chương
trình phục hồi di tích văn hóa thế giới của Liên hiệp quốc. Tình bạn, rồi tình
yêu đến dễ dàng giữa hai người. Năm sau, lễ cưới của hai người được tổ chức đơn
giản tại Huế. Hùng không biết Linh đã qua một đời chồng. Phần Linh cũng không
có ý định dấu. Linh từng dự tính cho Hùng biết tâm sự của mình trước khi cưới
nhau nhưng tiếc thay, cơ hội đó không bao giờ tới. Sau khi ổn định tại Thụy Sĩ,
Linh sống hạnh phúc với Hùng và các con, quên dần quá khứ. Ý muốn kể sự thật
với chồng lần hồi tan biến. Nhiều đêm trở mình thức giấc, nằm bên chồng, Linh
có cảm tưởng như mình thiếu trong trắng, nhưng khi muốn nói với chồng Linh lại sợ làm mất sự yên tĩnh của gia đình
**
Lần này về quê, ở lâu,
ý muốn nhìn lại ngôi nhà cũ - nơi bà đã chung sống với Bình và đã đau khổ, buồn
giận bố mẹ chồng mà bỏ đi - trở lại thôi thúc bà mãnh liệt. Thế nhưng bà vẫn
còn do dự. Bà tự hỏi: “Thăm làm gì và còn gì để thăm?” Trong thâm tâm, bà sợ
khơi lại đống tro tàn dĩ vãng.
Tuy nhiên, sau cùng, ý
bà đã quyết. Chiều hôm qua, ra vườn chơi với Thúy đang chăm chút mấy luống rau,
vừa lúc mặt trời đang xuống, bầu trời sáng rực, nắng vàng chiếu hắt lên, xuyên qua
một vầng mây trắng lớn, làm nổi bật giữa khoảng không bóng một đàn chim đang
xoãi cánh nhịp nhàng bay về phía chân trời. Bức tranh thiên nhiên vô tình gợi
lại hình ảnh bà thường thấy khi còn sống với Bình. Ngày xa xôi ấy, mỗi chiều
cơm nước xong, bà và Bình thường mang ghế ra ngồi trước sân nhà nhìn mặt trời
lặn và nhìn những đàn chim vội vã bay về tổ, mang trên cánh những mảnh hoàng
hôn lấp lánh. Mùa thu, Bình vừa thích dõi theo lũ chim di động vừa hát đủ cho
bà Linh nghe: “...Đến nay thu tàn, phương xa kìa chiếc én bay về. Khuất
trong mây ngàn, riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê...” Thanh âm tiếng hát của Bình như còn văng vẳng
đâu đây, Linh bỗng thấy nhớ Bình tha thiết, nhớ khoảng thời gian đã cho bà vui
hưởng mộng đẹp thuở đầu đời của người vợ trẻ sung sướng bên chồng.
Tắm mát xong, bà Linh
trang điểm qua loa, chọn mặc chiếc áo mầu hoa cà là mầu Bình thích nhất rồi ra
đi. Băng qua mấy con đường làng quen thuộc dẫn về phía bờ sông Hương, bà thấy
khung cảnh lạ dần, cây cối không còn um tùm như trước mà nhường chỗ cho nhiều
ngôi nhà mới mọc chen chúc nhau, mái tranh xen lẫn mái ngói. Đến một cánh đồng
nhỏ, mùa này lúa chưa trổ bông, bà Linh thấy trải ra trước mắt mình con đường
tỉnh lộ chạy sát mé sông. Một kiệt nhỏ rẽ ngang từ tỉnh lộ dẫn đến nhà Bình. Bà
Linh sẽ không chắc mình vào đúng lối nếu ở đầu cái kiệt nhỏ không có chiếc miếu
thành hoàng nay bỏ hoang. Thời gian ngắn ngủi ở với Bình, mỗi lần về nhà thăm
mẹ trở lại, bà Linh đã lấy ngôi miếu làm chuẩn để nhận ra đường. Bà cảm thấy
bồn chồn. Gần năm mươi năm bà mới đặt bước trở lại con đường nhỏ này. Cũng gần
50 năm, bà không giữ quan hệ nào với gia đình Bình. Bố mẹ Bình chắc không còn,
nhưng còn ba đứa em của Bình? Hai người một trai một gái suýt soát tuổi bà và
chú em út tên Văn, hồi đó chừng 12 tuổi, chưa biết gì và là người duy nhất
trong gia đình có cảm tình với bà. Nhiều khi thấy bà ngồi khóc một mình, chú bé
Văn đến bên cạnh ngây thơ hỏi: “Sao chị khóc?” rồi hôn lên má chị trước khi bẽn
lẽn chạy đi.
Đường kiệt nhỏ đầy con
nít, chỗ này mấy đứa đánh bi cãi nhau chí chóe, chỗ kia mấy đứa tụ lại bên cạnh
một quán nhỏ, ồn ào mua bánh kẹo. Vài đứa lớn ngẩng nhìn bà Linh, có vẻ đắc ý
nhận diện được người khách lạ. Bà nghe chúng thì thào kháo nhau: “Việt kiều tụi
bây ơi!” Bà mỉm cười. Danh hiệu Việt kiều từng mang đến cho bà niềm vui cũng
như nỗi buồn. Vui khi được cưng chiều vì Việt kiều đồng nghĩa với khả năng chi
tiêu rộng rãi; buồn khi bị đối đãi như một người khách lạ ngay trên chính quê
hương mình. Bà Linh cảm thấy lạc lõng với tâm cảnh một người mất mát cội nguồn.
Mặt trời lên đã khá
cao và độ ẩm làm khí trời nóng bức. Làn gió nhẹ thoảng lên từ giòng sông Hương
im lìm không làm cho bà Linh cảm thấy mát. Bà rảo bước để xua đuổi mấy ý nghĩ
bực mình. Dưới ánh nắng trưa, ngôi nhà ngày xưa hiện rõ trong tầm mắt. Bà Linh
lấy chiếc nón đang đội xuống, khoác vào cánh tay để quan sát ngôi nhà cho rõ
hơn. Ngôi nhà mái ngói trông khô khan, tường quét vôi trắng, nằm gọn giữa khu
vườn rộng nay không còn nhiều cây ăn trái như xưa, mấy luống khoai mì lá úa
vàng, thân thể khẳng khiu vì thiếu nước. Trong nhà, vẳng lên tiếng một phụ nữ
đang mắng con, bà biết ngôi nhà đã đổi chủ. Lòng bà bỗng dưng tẻ lạnh. Quá khứ
chôn chặt năm mươi năm, cho dù chỉ muốn khơi lại một lần, một chút, cũng không
còn gì. Tất cả đã vùi chôn dưới tro than dĩ vãng, ngay cả con đường này, ngôi
nhà đó, nơi bà đã sống những ngày hạnh phúc với chồng. Tất cả đều xa lạ, trong
một quá khứ đã chết. Bà Linh thấy chơi vơi trong nỗi trống trải khôn cùng. Nuốt
vội mấy giọt nước mắt nghẹn ngào trong cuống họng, bà đội lại chiếc nón lá lên
đầu rồi lầm lũi bước nhanh, rẽ vào lối khác trở về.
**
Ngồi trên máy bay trở
lại Thụy Sĩ, bà Linh thấy lòng bớt nặng nề. Lời hướng dẫn an toàn của nữ tiếp
viên phi hành, tiếng động cơ của máy bay cất cánh trên phi đạo không lọt vào
tai bà, đem theo cảm giác lo âu như những chuyến bay trước. Bà tìm được sự bình
an cho tâm hồn sau giây phút xúc động mãnh liệt chạm mặt với những kỷ niệm xưa.
Bà tìm cách lấp một khoảng trống để chỉ thấy một khoảng trống khác hiện ra,
nhưng ít nhất, bà đã trở về thăm nơi chốn đó.
Máy bay hạ thấp cao
độ. Qua cửa sổ thân tàu, cảnh vật quen thuộc bên dưới hiện dần ra. Bà vui mừng
xiết lại dây an toàn, sửa thẳng lại lưng ghế, sung sướng sắp được gặp lại Hùng
và các con.
Phi trường Geneve
nhiều hành khách ngoại giao, chỉ thua Nữu Ước, rộn rịp như thường lệ. Nhân viên
quan thuế và di trú làm việc nhanh chóng và lễ độ. Đi lẫn với đoàn hành khách
đáp cùng chuyến bay, bà Linh làm thủ tục quan thuế và nhập cảnh xong, vội vàng
bước ra ngoài. Nhận ra nét mặt rạng rỡ của mẹ, cô gái út vừa đỡ hành lý cho mẹ
vừa tíu tít: “Mẹ! Mẹ về quê ngoại chuyến này lâu, vui lắm hả mẹ?”
Hùng ngắm vợ, cười
bằng ánh mắt vui tươi và phụ họa: “Con nói đúng, bố thấy mẹ gầy đi chút ít
nhưng khuôn mặt mẹ thật bình an, như người vừa đắc đạo.” Quay sang vợ, ông âu
yếm hôn lên má bà và trêu: “Mấy kỳ trước, sau mỗi lần thăm nhà trở về, anh thấy
em buồn như luyến tiếc một cái gì muốn mang theo chẳng được, đành bỏ lại. Em
nghiên cứu giáo lý nhà Phật và tập thiền định đã có kết quả đấy.” Bà Linh mỉm cười ngượng ngùng, pha lẫn chút
hãnh diện.
**
Một buổi sáng đi chợ
về, bà Linh thấy chiếc phong bì đóng dấu bưu điện Việt Nam gởi cho bà từ Đà
Lạt. Bà dự cảm một điều gì lại đang xảy tới, làm xáo trộn đời bà? Vừa bóc thư, bà
vừa lục tìm trí nhớ xem còn bạn bè nào ở Đà Lạt? Không. Bà không còn ai thân
thích ở Đà Lạt.
Bà Linh nín thở đọc lá
thư, sắc mặt biến từ ngạc nhiên đến xúc động. Đọc xong, không kềm chế nổi mình,
bà đặt lá thư xuống bàn và ôm mặt khóc nức nở. Vừa lúc đó, Hùng đi chơi quần
vợt về. Thấy vợ khóc, phong thư còn mở bên cạnh, Hùng thoạt nghĩ chắc có chuyện
chẳng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam. Nhưng Hùng không tin. Ông biết vợ là
người giỏi chịu đựng và quen tự chế cảm xúc. Xưa nay dẫu buồn khổ gì, bà chỉ để
thoáng lên nét mặt, chưa bao giờ khóc, ngay cả lần đứa con trai thứ nhì năm đó
mới 8 tuổi, đi học về, bị xe cán, phải nằm phòng hồi sinh mấy ngày mới biết
thoát chết, bà cũng chỉ cắn răng chịu đựng chứ không khóc. Hùng yên lặng đến
ngồi cạnh vợ, âu yếm đặt nhẹ bàn tay lên vai bà, đôi mắt nhìn hỏi han mà không
nói, sẵn sàng chia sẻ thống khổ với bà.
Bà Linh ngừng khóc,
cầm lá thư đưa cho Hùng, nhẹ nhàng bảo chồng: “Anh đọc đi.”
Hồi hộp, Hùng mở bức
thư:
“Đà Lạt ngày 4 tháng 6 năm 1994
Chị Linh,
Tôi
xin giới thiệu ngay để chị khỏi ngỡ ngàng. Tôi là Nguyễn Văn Giang, em của anh
Nguyễn Văn Bình ở Kim Long. Chắc chị chưa quên người chồng bất hạnh chỉ được
hạnh phúc sống bên chị một năm rồi tức tưởi qua đời trong chiến tranh?
Bốn
mươi tám năm nay, từ hồi anh tôi bị lính Pháp bắn chết rồi quăng xác xuống sông
như lời chị thuật lại, ba má tôi vì quá đau khổ, đã không biết phải đối xử với
chị như thế nào cho đúng, khiến chị buồn lòng phải quay về ở cùng hai bác.
Một
phần vì chiến tranh tiếp diễn, một phần vì chúng tôi còn nhỏ, không ai nghĩ đến
việc tìm xác anh tôi xem đã trôi dạt phương nào? Hơn nữa, chỉ có chị là người
duy nhất biết rõ những chi tiết cuối cùng trước khi anh tôi qua đời, thì từ đó
đến nay gần 50 năm, chúng tôi bặt tin chị. Do hoàn cảnh của một đất nước bị
chiến tranh xâu xé, hòan cảnh cá nhân thay đổi, gia đình bọn em và chị mất liên lạc với nhau.
Cách
đây mấy năm, tại Việt Nam có phong trào truy tầm tử sĩ bỏ mình trong chiến
tranh. Tôi vào Nam lên Bến Cát hỏi thăm, sau đó liền về Huế hỏi thăm tin chị.
Chị có còn nhớ chú Văn hồi đó 12 tuổi, thương chị nhất nhà không? Thỉnh thoảng
chú vẫn hỏi tôi về chị? Ở Huế, tôi được biết chị vừa về thăm quê và ở chơi gần
sáu tháng mới trở lại Thụy Sĩ. Cô An, bạn chị, cho tôi địa chỉ của chị.
Vậy,
vì tình cũ nghĩa xưa với người chồng đã khuất, xin chị vui lòng cho tôi biết
thật đầy đủ những gì chị còn nhớ về những ngày biến động kinh hoàng năm 1946
ấy, may ra tôi truy tìm và nhân diện được xương cốt của anh tôi. Biết đâu có ai
đó giúp gói ghém, chôn cất, hoặc vùi lấp tại một nghĩa trang tử sĩ nào chăng?
Hiện
nay, tỉnh nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ dành cho những người đã bỏ mình trong
cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Tại nghĩa trang liệt sĩ Bến Cát, có
một ngôi mộ vô chủ, đề tên Nguyễn Văn Bạc. Tôi sẽ xin khai quật để xem có phải
đó là mộ phần của anh tôi không sau khi có thêm được chi tiết chị cho để giúp
kiểm chứng. Anh tôi có một chiếc răng cời. Năm anh về Huế cưới chị, nghe nói
anh có ý định sẽ nhổ đi, nhưng tôi không biết anh có kịp đi nha sĩ trước khi
lâm nạn không?
Năm
1946, chị trở về Huế sau khi anh tôi qua đời. Nhớ lại, tôi rất tiếc ba má và
chúng tôi đã đối đãi thiếu thông cảm với chị. Mới rồi, tôi lên Bến Cát, lên cầu
Bến Củi, nhìn con sông Bến Lức cuồn cuộn chảy dưới cầu, vào làng Hòa Định nghe
các cụ già kể lại chuyện Tây khủng bố trắng dân làng khi tái chiếm, bắn hằng
loạt người đôi khi có cả phụ nữ, tôi biết chị không có cách nào khác hơn là
chạy thoát lấy thân để về cho ba má tôi biết sự tình. Lúc này, có cơ hội để
hiểu và thông cảm nỗi khổ tâm của chị thì ba má tôi đều đã trăm năm thiên cổ.
Tôi
rất mong thư chị hồi âm để chuẩn bị đi Bến Cát một lần nữa. Giang.”
Đọc xong lá thư không
hề chờ đợi, Hùng thấy tim đau nhói, người choáng váng. Ông cố trấn tĩnh, hiểu rằng nếu Linh đã không
thể thổ lộ với ông sự thầm kín bí ẩn của đời nàng trước khi cưới nhau thì nàng
sẽ càng không đủ can đảm bày tỏ khi đứa con đầu lòng ra đời và gia đình ngập
tràn hạnh phúc. Hùng nhớ lại thời gian cả hai quấn quýt thân cận trước khi
cưới, hơn một lần đang giữa lúc vui, bỗng nhiên Linh trở nên trang nghiêm và
nói: “Anh Hùng, Linh có chuyện quan trọng cần nói với anh,” thì mười lần như
một, lần nào Hùng cũng sợ làm mất giây phút thần tiên quí báu bên người tình
kiều mị đang chiếm ngự hồn xác mình nên gạt đi: “Không có gì quan trọng hơn
giây phút anh và em ở bên nhau.” Hồi
tưởng lại chuyện cũ, Hùng chợt thấm ngấm nỗi đau của vợ, một mình lặng lẽ chôn
chặt sầu muộn trong lòng suốt nửa thế kỷ qua, thật tội nghiệp cho bà quá! Ông bỗng
thấy dấy lên trong lòng niềm thương cảm dành cho người vợ từng sống chan hòa
bên ông với không một điều gì có thể chê trách.
Thấy Linh im lặng chờ
đợi, Hùng vội đáp để vợ bớt lo âu:
“Anh biết anh đã không
cho em cơ hội nói chuyện này với anh từ những ngày chưa cưới nhau. Lỗi tại anh.
Bây giờ, vấn đề là chúng ta có nên cho các con biết không?”
Linh buột miệng dứt
khoát trước khi bà kịp nghĩ ngợi: “Không, không anh. Chúng ta không nên và cũng
không có quyền làm như thế.”
**
Vài hôm sau, Linh ngồi
xuống, viết thư cho Giang:
“Chú Giang,
Thú
thật với chú, chị hết sức ngạc nhiên và ngỡ ngàng lúc nhận được lá thư mang bưu
ấn Đà Lạt, một nơi chị không còn ai trong vòng quen biết. Lục lọi ký ức, cũng
không nhớ được ai là Nguyễn Văn Giang. Vội vàng đọc lướt mấy hàng chữ, đến hàng
thứ nhì, mấy chữ Nguyễn Văn Bình làm chị quá xúc động. Cả một trời dĩ vãng máu
lệ đau thương vụt sống lại trong trí óc chị, trải ra như cuốn phim truyện
trường thiên buồn nhiều hơn vui, xuyên suốt thời gian gần nửa thế kỷ hòa trộn
cùng lịch sử đất nước với quá nhiều biến động. Vì hoàn cảnh riêng, chị đã một
mình ôm trọn, một mình khâm liệm tất cả trong tận cùng đáy lòng không thể thổ
lộ với ai.
Chị
đọc đi đọc lại thư chú nhiều lần. Trước hết, chị cảm tạ chú và chú Văn đã nghĩ
đến việc tìm kiếm hài cốt của anh Bình, người chồng ngỡ là trăm năm của chị, để
mang về quê quán cho anh được gần mộ phần cha mẹ.
Chị
cũng cảm thấy lòng mình được bình thản hơn sau khi đọc đoạn thư chú cho biết
các cô, các chú, sau chuyến đi Bến Cát, đến cầu Bến Củi, xuống tận xã Hòa Định,
hỏi han các cụ già là nhân chứng còn sống sót qua những vụ người Pháp ruồng bố
dân làng, sát hại những người theo kháng chiến, để hiểu rõ nguyên nhân cái chết
bi thảm của anh Bình và thấu hiểu được hoàn cảnh nghiệt ngã nào đã không cho
chị nấn ná ở lại tìm cho ra xác chồng trước khi trở về không có cả một vành
khăn trắng trên đầu.
Hồi
tưởng lại năm xưa, khi chị cố nuốt lệ để trình bày về cái chết của anh Bình,
cha mẹ và các cô chú đều không tin đó là sự thật mà ngờ rằng có một bí ẩn nào
khuất lấp bên trong nên đã tìm cách xua đuổi người con dâu góa bụa với không
một lời an ủi cho số phận không may của nó. Không còn lựa chọn nào khác hơn,
chị đành ôm vết thương lòng trở về nhà bố mẹ.
Như
câu chuyện đã thuật lại với cha mẹ cách đây 48 năm, chị xin nhắc thêm các nét
chính để chú dùng làm dữ kiện xác minh mồ mả của anh Bình. Chắc chú còn nhớ,
anh Bình là nhân viên quản lý trại tù Ông Yệm, nơi giam giữ trẻ vị thành niên
phạm pháp. Khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, anh Bình và một số nhân
viên làm việc cho chính quyền cách mạng. Qua các hoạt động của anh Bình, chị
biết anh đã tham gia phong trào chống Pháp từ trước. Năm 1946, khi Pháp tái
chiếm Nam bộ, anh Bình hướng dẫn một số nhân viên sở Ông Yệm, trong đó có anh
giáo Trinh, tham gia các tổ du kích tiếp tục chống lại người Pháp. Anh Bình giả
làm thường dân, sống như mọi gia đình khác tại một căn nhà cạnh bìa rừng để
hoạt động. Cuộc sống nguy hiểm và đầy bất trắc vì quân Pháp bố ráp thường
xuyên. Hơn một lần anh Bình bảo chị: “Em nên tìm cách về Sài Gòn, liên lạc với
bà con bên ngoại của anh rồi liệu kiếm đường về Huế ở với cha mẹ một thời gian.
Kháng chiến thành công, anh sẽ về đón em.” Tuy vậy, cứ ngày đêm lần lữa bên
anh, quen dần với hiểm nguy, chị bịn rịn không rời anh được.
Một
buổi sáng trước rạng đông, một tiểu đội lính Pháp ập vào chòi lá anh chị đang
ẩn náu, chĩa súng, nạt nộ, bắt anh dong tay, lục xét người anh và toan đánh đập
anh ngay tại chỗ. Thấy anh nói tiếng Pháp lưu loát, chúng kiêng nể nên không
dám thẳng tay hành hung anh.
Khi
bị chúng áp giải đi, anh mặc chiếc áo sơ mi trắng đã ngả màu, bên ngoài khoác
cái áo len màu nâu do chính tay chị đan, quần sọt kaki vàng. Chiếc răng cời của
anh mà chú nhắc trong thư vẫn còn nguyên.
Hôm
sau, chị bôi mặt mày, giả dạng bà già đi với chị Bảy, bạn cùng xóm, tìm đến đồn
lính Pháp hỏi thăm tin tức anh. Họ cho anh và chị gặp mặt. Anh Bình khuyên chị
trốn đi, vài hôm được thả, anh sẽ tìm chị.
Nhưng
chị quyết không đi đâu cả mà nương náu nhà anh chị giáo Trinh, mong đợi tin
lành của anh. Bốn hôm sau, một buổi sáng chị và chị Trinh vào rừng kiếm củi trở
về, vừa trông thấy chị, anh giáo Trinh bưng mặt khóc và nói: “Chị ơi! liên lạc
vừa báo tin anh Bình đã bị chúng giết chết rồi. Chúng bắn anh trên cầu Bến Củi,
trước mắt dân chúng để thị uy, xong đá xác anh xuống sông.”
Chưa
nghe hết câu, chị đã ngã lăn ra đất, bất tỉnh không biết bao lâu, nhờ vợ chồng
anh giáo Trinh cứu chữa mới hồi lại. Sau đó, chị lên cơn sốt triền miên, thân
thể, lòng dạ nóng như hơ lửa, đếm từng giờ khắc ngóng đợi tin từ liên lạc viên
của tổ chức xem có tìm được xác anh không? Các cụ già nói xác trôi sông nhiều
lắm ba ngày sẽ nổi lên. Thế nhưng chị chờ mãi mà không thấy âm hao gì. Chị nghe
nói sông Bến Lức chảy về Thủ Dầu Một rồi ra sông lớn và ra biển.
Không
còn hy vọng nào tìm được xác anh để cho anh nấm mộ, chị cùng gia đình anh giáo
Trinh tìm đường về Thủ Dầu Một và từ đây, chị về Sài Gòn. Có lẽ nhờ vong linh
anh Bình phù trợ, chị may mắn tìm được gia đình anh Khánh, bà con xa bên ngoại
của anh Bình. Chị bán mấy chiếc áo, thêm chút tiền giúp đỡ của anh chị Khánh,
dùng làm lộ phí ra Vũng Tàu rồi từ đây, đáp tàu thủy ra Hải Phòng, sau đó, lấy
tàu điện lên Hà nội rồi đi xe lửa về Huế. Chị không đủ giấy mực để có thể kể
lại hết mọi gian truân của chuyến đi kéo dài ròng rã hai tháng này. Nhiều lúc,
chị đã tưởng chừng không cách nào mang được xác về đến quê hương. Năm ấy, chị
vừa 18 tuổi.
Chị
hy vọng với những gì chị ghi nhớ như trên và hồn thiêng của anh Bình sẽ giúp
chú tìm được mộ phần của anh.
Chị
cầu nguyện và chờ thư chú.”
**
Được thư Giang thông
báo, năm sau, từ Los Angeles Văn đến Genève thăm gia đình chị Linh. Trở về, Văn
viết cho anh:
“Anh
Giang,
Nhân
có việc đi Thụy Sĩ, em đến thăm chị Linh và gia đình. Như đã hẹn trước, chỉ có
anh chị ở nhà đón tiếp em. Chị nhìn em bỡ ngỡ, không ngờ có ngày gặp lại chú bé
em chồng năm xưa. Chị nấu bún bò Huế, anh Hùng tự tay mở rượu chát đỏ mời đãi
em.
Câu
chuyện trao đổi thân tình, ấm áp, mặc dù đối với anh Hùng, em là người xa lạ,
và đối với chị Linh, em là hiện thân của một quãng đời nhiều kỷ niệm đau buồn
nhất của chị. Cả ba người đều cố không nhắc đến anh Bình tuy em biết không ai
quên.
Lúc
em đến, chị Linh chào em ở một khoảng cách vừa đủ nhìn vào mắt nhau nhưng lúc
tiễn em ra cửa, chị ôm em vào lòng, dấu vội mấy giọt nước mắt và nói nhỏ: “Chú
giống anh Bình quá!” Chia tay nhau xong, anh chị như không muốn kéo dài giây
phút lưu luyến nên chỉ đứng ở ngưỡng cửa nhìn theo em ra xe về.”
**
Sau này, để tránh gợi
lại nỗi thương tâm cho cả ba, mỗi lần đi Âu châu, Văn cầm lòng không đến thăm
chị Linh nữa. Những dịp lễ lạc, Tết nhất, Văn cũng không gởi thiệp chúc mừng
đến chị. Văn vẫn rất nhớ thương chị, nhưng anh biết chị cần phải quên đi để
được sống bình an sau những năm tháng lao đao như chiếc bách giữa giòng bị sóng
gió vùi dập.
**
Thời gian vụt bay theo
những tờ lịch mỏng gió cuốn đi.
Một buổi chiều đầu
tháng Tư năm 2012, mùa Xuân trở lại, mưa lất phất chợt đến chợt đi trên thành
phố Los Angeles, Văn nhận được điện thư của cô con gái chị Linh, báo tin chị
vừa tạ thế :
“Thưa bác,
Gia
đình cháu rất thương tiếc báo tin đến bác, mẹ cháu vừa qua đời sáng hôm qua
trong giấc ngủ bình an, thọ 86 tuổi. Người y tá vẫn đến nhà săn sóc mẹ cháu từ
it lâu nay, khi kéo tấm màn cửa sổ phòng bà, biết rằng không phải thức bà dậy
nữa. Cháu sẽ có thư báo tin đến bác ngày giờ và địa điểm cử hành tang lễ, xin
bác góp lời cầu nguyện cho mẹ cháu.
Lệ
Quyên.”
Cách Lệ Quyên xưng hô
cho Văn hiểu rằng anh được xếp vào danh sách bằng hữu của cha mẹ cô chứ không
phải một thân nhân trong gia quyến. Dẫu sao, anh cũng không ngờ “chị Linh của
anh” thực sự đã không bao giờ muốn quên những gì anh thành tâm cầu mong chị
quên được. Chị vẫn “dấu quanh dấu quẩn nỗi buồn một nơi” như ca từ một
bản nhạc phổ thơ nổi tiếng của Từ Công Phụng. Địa chỉ điện thư của anh chị hỏi
trong lần duy nhất anh đến thăm chị, đã được chị ghi lại kỹ lưỡng cùng với tên
của anh cho lần cuối cùng này. Quả thật, “chị Linh của anh,” người phụ nữ Việt
Nam can trường của một “thuở trời đất nổi cơn gió bụi,” đã sống để dạ,
chết mang theo, cuộc tình không may với anh Bình của Văn.
Trần Văn Sơn
Viết lại tháng 4/2012
Cùng với nhà văn Bùi Bích Hà