Bà Mẹ Việt
Mẹ tôi là một bà mẹ
Việt
Được tin Mẹ tôi hấp hối, Ba tôi, anh
tôi và tôi chạy lo phương tiện về Huế. Ba và anh tôi lấy chỗ
Air Việt
Tôi thay quân phục bằng một bộ đồ dân
sự và dùng phương tiện chuyên chở công cọng bằng xe
lam ba bánh về Huế. Trận Mậu Thân vừa mới chấm dứt các đường giao thông chung quanh Huế chưa được an ninh nhất là cho quân nhân mặc
quân phục.
Bước vào ngôi nhà lợp ngói nép mình
bên bờ sông Hương, cất trong một ngôi vườn trồng chuối do đất của ông ngoại tôi
để lại, nơi năm anh chị em chúng tôi ra đời, tôi thấy Mẹ tôi nằm thiêm thiếp trên
một chiếc giường tre đặt nơi nhà chái, chị Lợi ngồi bên cạnh. Nhà trên, bàn thờ
ông bà ở căn giữa, căn bên trái đặt một chiếc quan tài còn mở nắp, với đầy đủ đồ
khâm liệm bên trong. Căn bên phải người anh rể, chồng của chị Gái tôi, đang ngồi
bên chiếc máy may may đồ chế. Ngoài tiếng máy may cũ hiệu
singer kêu xành xạch, ngôi nhà thật yên
tỉnh.
Đặt hành lý cá nhân
xuống sàn nhà tôi bước đến ngồi bên cạnh Mẹ tôi. Tôi đưa
mặt lại gần mặt bà. Mắt Mẹ tôi nhấp nháy, chợt sáng lên như nhận biết. Tôi
ngó xuống và cầm bàn tay lạnh ngắt của Mẹ tôi, bàn tay
Mẹ tôi muốn khép nhẹ nơi bàn tay tôi, nhưng quá yếu, duỗi dần ra. Tôi lo sợ ngước nhìn khuôn mặt bà, đầu bà hơi nghiêng về phía
trong. Mẹ tôi ra đi một cách than thản. Chị tôi khóc òa lên không nói nên lời. Tôi
hoảng hốt nhìn ra sau. Anh rể tôi đã đứng đó từ lúc nào.
Anh ôn tồn nói, Mẹ yếu lắm rồi chỉ chờ cậu về để ra đi đó thôi.
Mắt anh rươm rướm nước mắt. Câu nói
anh tôi làm tôi nhớ đến một chuyện Mẹ tôi thường kể với anh chị em tôi nhiều chục
năm về trước. Một thầy tướng nói với mẹ tôi rằng bà có
chồng, có năm con, nhưng khi nhắm mắt chỉ có hai người con bên cạnh bà thôi.
Sự tiên đoán của thầy tướng làm Mẹ tôi rất buồn nghĩ rằng Ba
tôi sẽ mất trước mẹ tôi. Tôi vốn cứng đầu không tin tướng số, tử vi, bói toán, dị đoan, nhưng sự ứng nghiệm làm tôi chới với cảm
thấy cái huyền bí của trời đất và những nhân duyên bao phủ quanh chúng ta.
Không chịu được nổi bức xúc, nước mắt
ràn rụa, tôi bỏ chạy ra sau vườn nhà, để mặc cho chị tôi và anh rễ tôi bên cạnh
Mẹ tôi như tôi vẫn thường tự cho là con út trong nhà không biết làm gì cả, và tôi
chưa hề thấy anh chị tôi tranh cãi với cái lý luận thiếu trách nhiệm của tôi.
Ánh sáng ở ngoài làm chóa mắt tôi. Cái
giếng nước năm xưa nằm ngay giữa ngôi vườn rộng hơn hai mẫu vẫn còn đó, và con đường
nhỏ dẫn từ nhà tôi sang nhà cậu tôi cỏ chiếm một nửa bề rộng đường đi. Nhà cậu
tôi và cũng là nơi thờ ông ngoại tôi nằm sâu sau vườn được che kín bởi những cây
ăn trái. Ông ngoại tôi thích cây ăn
trái hơn là trồng chuối. Trái lại quanh nhà tôi đầy chuối chen
lẫn giữa mấy cây cam và một cây mít. Chuối đang trỗ buồng
xanh ngắt.
Khu vườn mang nhiều
kỷ niệm của tôi thời thơ ấu. Gốc mít là nơi tôi ngồi học,
khát nước thì lấy gào múc nước giếng uống, nước giếng mát tới ruột gan. Hồi
còn nhỏ dưới tuổi mặc quần mỗi khi mưa giông tôi cùng mấy đứa bé cùng tuổi
trong xóm không phân biệt trai gái cởi truồng chạy quanh vườn tắm mưa, mưa chưa
cho là đủ thì dội thêm nước giếng. Mẹ tôi nói trời giông mưa
mới đổ xuống, hơi đất bốc lên độc nên cấm tôi tắm mưa. Mỗi lần không cuỡng được thú cởi truồng tắm mưa thế nào Mẹ tôi cũng
kêu vào, lau khô đít rồi quất cho mấy roi đau quắn. Đánh
xong được Mẹ tôi xoa đít nên tôi nhớ mãi những trận mưa giông.
Tôi bước nhẹ trên con đường cỏ đến ngồi
dưới một gốc cây mít. Bóng mát làm tôi thấy dễ chịu, nhớ đêm nào mấy tháng trước
khi quân đội Bắc Việt đang chiếm Huế và kiểm soát những vùng chung
quanh Phường Đúc tôi như bị vây giữa một ốc đảo, mỗi đêm chờ khuya, trời tối lẻn
ra vườn men theo con đường cỏ qua nhà cậu tôi tá túc. Năm Mậu
Thân tôi đem hai đưa con trai về Huế thăm ông nội và bị kẹt ở đó.
Khi tôi trở vào nhà,
trong nhà đầy người. Láng giềng kéo đến giúp tẩm liệm.
Mẹ tôi đã được tắm rữa và thay một bộ áo tràng mới mầu lam. Tóc bà được chải gọn gàng,
trên ngực có một chiếc ảnh Phật Thích Ca nhỏ lộng kính trong một khung gỗ thếp
vàng. Bà nằm trên chiếc giường bệnh của bà, được lót một chiếc chiếu hoa
mới, mắt nhắm lại chưa kín hẳn như đang lịm dần vào một giấc ngủ chưa say.
Mẹ tôi bệnh lâu ngày, mất vào tháng
Sáu, trời Huế nóng và ẩm nên chỉ để một đêm, sáng hôm sau phải tẩm liệm và đóng
hòm không thể chờ Ba và anh tôi. Tẩm liệm xong thì Ba và anh
tôi về đến Huế. Số trời đã định Ba và anh tôi không được
thấy mặt Mẹ tôi khi qua đời. Mẹ tôi được chôn cất trong một ngôi vườn tư
nhân nằm trên một vùng đất cao chị Lợi tôi mua nằm cạnh một con đường nhỏ rẽ về
hướng nam từ tỉnh lộ Huyền Trân. Bên kia con đường nhỏ
đối diện với khu vườn là một nghĩa địa công cọng mênh mông. Mười
năm sau khi Ba tôi qua đời cũng được chôn cạnh Mẹ tôi, và hiện nay chị tôi đã dời
cả hai ngôi mộ lên núi Thiên Thai phía nam kinh thành Huế.
Mẹ tôi quê quán tại Bình Bịnh, hậu
duệ của quận công Lê Chất, một trong năm ngủ tướng phò vua Gia Long thống nhất
sơn hà, và có một người con trai Lê Hậu làm phò mã, nhưng vua Minh Mạng không ưa.
Sau khi quận công qua đời vua Minh Mạnh hạch tội quận công, bắt giam vợ và bốn
người con trai, và đày phò mã Lê Hậu ra Nghệ An. Sau này vua Tự Đức cải án cho quận
công và
Tuyên vũ Tướng quân làm quan ở Huế
sinh hạ hai người con trai đều trở thành hai vị võ quan của triều đình, một vị
là Đề Đốc, một vị là Lãnh Binh.
Ông Lãnh Binh này
là ông ngoại tôi. Về hưu ông an dưỡng tuổi già
tại Phường Đúc. Triều đình Huế suy thoái trước uy quyền của người Pháp, ông ngoại
tôi không cho các con ra làm quan, đa số trở thành công chức của chính phủ bảo
hộ. Mẹ tôi là con gái không được cho đi học. Mẹ tôi vì vậy không biết chữ nghĩa
bao nhiêu, nhưng sau khi lấy Ba tôi, một thanh niên miền quê lên tỉnh học tiếng
Pháp, bà đã là một người đàn bà đảm đang nuôi dạy 5 anh chị em chúng tôi tại ngôi
nhà xây cất trong vườn cây của ông ngoại tôi mua. Phường Đúc
là nơi Mẹ tôi đã sinh ra lớn lên và chết ở đó. Tôi là con út trong nhà, đến tuổi trưởng thành đã
sống xa nhà nên không có cơ hội hỏi biết về Ba và Mẹ tôi, ít nhất là cuộc tình
của hai người. Đến khi thấy cần biết thì Ba Mẹ tôi đều
đã khuất núi. Người chị cả và anh đầu của tôi cũng đã
ra đi.
Mẹ tôi làm nghề buôn
trầm. Tôi không biết do hoàn cảnh nào Mẹ tôi làm nghề này. Rừng núi Trường Sơn có nhiều cây trầm. Người
tìm trầm là những người thợ chuyên môn. Họ đi từng toán
ít nhất là ba người vào rừng sâu có khi kéo dài đến vài tháng để tìm cây trầm,
chặt đẽo ra từng miếng nhỏ mang về bán cho các mối ở thành phố. Nghề này
rất nguy hiểm, người tìm trầm có thể gặp thú dữ, rắn độc, có thể bị bệnh chết
trong rừng sâu, và thỉnh thoảng tôi nghe Mẹ tôi nói tới những toán tìm trầm biệt
dạng không một ai trở về. Gỗ cây trầm thơm, nghiến nhỏ
thì làm hương, nếu để từng miếng đốt lên khói thơm tỏa ra ngào ngạt được dùng tại
chùa hay tại tư gia trong những dịp cúng giổ.
Trầm về Mẹ tôi mua
mang về nhà, thuê người gọt đẽo đế lấy dăm nghiến nát làm hương. Miếng trầm
được hơ nóng cho tỏa nhựa đen trông rất đẹp mắt dùng để xông trầm. Mẹ tôi bán lại sản phẩm đó cho các tiệm Tàu ở Huế. Mẹ tôi bận rộn suốt ngày với công việc. Nếu
không đi thăm gia đình các toán tìm trầm thì đi giao hàng cho các nậu mua trầm.
Và nếu không đi đâu thì tiếp tay thợ ở nhà đẽo gọt trầm.
Ba Mẹ tôi thuộc lớp
người cổ. Chỉ có ba anh em trai chúng tôi được đi học,
còn hai chị tôi không được đi học. Chị đầu của tôi hình
như không biết chữ cho đến khi vì nhu cầu tiếp nối nghề buôn trầm của Mẹ tôi mới
tập tành mấy chữ để ghi nợ. Người chị kế tôi may mắn hơn, đọc và viết giỏi
chữ Việt nhờ
Mẹ tôi bận buôn bán nên việc học của
anh em chúng tôi do Ba tôi chăm sóc. Ba tôi thuộc dòng họ Trần
tại xã Kim Bảng, huyện Thiên Bổn, xứ Sơn
Năm 1626 Chúa Nguyễn Phúc Nguyên bỏ
Quảng Trị dời đô về làng Phúc An (gần Kim Đôi ) thuộc
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Họ Trần được Chúa cấp đất tại làng Thành
Trung kế cận nên con cháu họ Trần quyết định định cư, chọn Thành Trung làm
chánh quán, chôn cất tổ tiên tại đó và vào năm Quý Hợi (1683) lập một đền thờ họ
Trần.
Qua mấy đời nữa gia phả không ghi
rõ, chỉ biết đời ông nội tôi làm ăn lam lũ nhưng ông nội tôi vẫn cho Ba tôi đi
học chữ Hán, và sau này (khoảng năm 1920) khi chính phủ Pháp bỏ nền giáo dục bằng
chữ Hán Ba tôi học chữ Pháp và được tuyển vào trường Bá Công tại Huế. Trường Bá
Công là một trường huấn nghệ đào tạo một lớp thợ có học cho sự phát triển xã hội
Việt
Mẹ tôi tuy không ảnh
hưởng tôi về mặt học hành nhưng ảnh hưởng sâu sắc đến tôi về mặt tinh thần.
Mẹ tôi mộ đạo Phật, mà người dẫn dắt là hòa thượng Thích Đôn Hậu, thường được gọi
là ôn Linh Mụ. Pháp danh Ôn Linh Mụ đặt cho Mẹ tôi là Tâm Lạc. Tâm là chữ đầu
pháp danh của bất cứ đệ tử nào của Ôn, và Lạc là đức tính Ôn tặng Mẹ tôi: lạc
quan tu học. Mẹ tôi đi lễ chùa Linh Mụ hằng tháng, kính viếng
và cúng dường Ôn như một người cha còn sống.
Dòng họ Lê của Mẹ tôi hình như bị ám
ảnh bởi một mối thù triền miên nào đó do ông Lê Chất tạo nên trong khi ông làm
tướng. Chỉ là sự thì thầm giữa những người lớn, nhưng tôi đoán
là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Mẹ tôi tu hành. Mẹ tôi có lý. Con gái cũng như con trai họ Lê thuộc dòng ông
Lê Chất chết khá nhiều trong chiến tranh đã đành, ngay ở trong thành phố cũng
chết vì súng đạn. Mẹ tôi tu hành, làm điều thiện, và cầu nguyện
để giải oán hờn của cha ông. Mẹ tôi dạy chúng tôi hằng ngày làm lễ Phật,
cầu nguyện đức Quan Thế Âm qua lời nguyện tôi còn nhớ:
Mùa đông năm đó tự
nhiên mỗi buổi tối cứ đặt mình xuống phản là tôi cảm thấy bồn chồn như có một cái
gì đe dọa quanh mình. Tôi không nói với ai cái cảm giác
kỳ lạ của tôi. Một buổi sáng tôi vừa thức giấc, đang còn mơ màng tôi
nghe từ dưới nhà bếp Mẹ tôi bảo chị tôi lên xem cái ghè có sạch không để bỏ mớ
khoai khô vừa mua được hôm qua vào. Tiếng chân chị tôi bước lại chiếc ghè, và tôi
thoáng nghe tiếng chị tôi nói với Mẹ tôi: “Có cái gì ươn ướt bên trong mẹ ơi”.
Tôi bỗng bật người dậy hét thật to: “Rút tay ra, rút tay ra mau”. Chị tôi rút tay ra khỏi chiếc ghè như một phản ứng tự nhiên. Ba tôi ngồi dậy, mẹ tôi dưới bếp chạy lên cầm cây đèn dầu lửa soi vào
ghè. Một con rắn hổ nằm cuộn tròn dưới đáy ghè. Chị tôi
đã làm mất giấc ngủ mùa đông của nó và đã thoát chết trong gang tấc.
Mẹ tôi thường quan
tâm đến chữ tâm. Mẹ tôi dạy chúng
tôi rằng đời sống của con người cốt ở chữ tâm. Thay vì nói “vạn
sự khởi đầu nan”, Mẹ tôi hay nói “vạn vật khởi từ tâm”. Mẹ tôi nói nếu tâm
tốt thì làng xóm, xã hội, đất nước sẽ được an bình. Lớn
lên đi đây đi đó trải qua bao nhiêu biến chuyển của đất nước, sống dưới bao nhiêu
chế độ chính trị, tiếp xúc với bao nhiêu tôn giáo tôi nhận ra rằng mọi cái
khung để làm cho đời sống con người được ổn định về cả hai phương diện vật chất
và tâm linh như các chế độ chính trị và tôn giáo đều có cái giá trị của nó nếu
người ta điều hành nó với cái tâm tốt. Khi cái tâm trở nên xấu
thì mọi sự đều có thể bị lợi dụng và xã hội, rộng hơn là thế giới, bắt đầu loạn
lạc nhiễu nhương. Hồi Mẹ tôi còn sống chưa có những câu như: “muốn xây dựng
xã hội chủ nghĩa phải xây dựng con người xã hội chủ nghĩa” và gần đây hơn như “muốn
xây dựng dân chủ cần có con người dân chủ”. Nhưng theo
triết lý của Mẹ tôi thì: “Muốn xây dựng bất cứ cái gì con người cần có cái tâm
trước đã”. Vì con người xã hội chủ nghĩa
hay con người dân chủ mà không có cái
tâm thì xã hội chủ nghĩa chẳng có mà
dân chủ cũng không.
Mẹ tôi đã ra người
thiên cổ. Mẹ tôi đang yên giấc bên ngọn núi Thiên Thai
của xứ Huế bình yên phẳng lặng bên cạnh mồ mả khác của họ Lê. Bà không được
song thân cho ăn học như đa số phụ nữ Việt Nam không được ăn học vào thời đại của
bà, nhưng bà đã làm tròn nhiệm vụ một phụ nữ Việt Nam trong việc thờ chồng nuôi
con. Mẹ tôi đã để lại nơi chúng tôi một cái tâm hướng thiện mà Mẹ tôi tin là vốn
quý nhất của con người Việt
Trần Văn Sơn
Trần Bình
|
http://www.vnet.org/tbn |