BÊN SÔNG
Ô LÂU
Trần Văn Sơn
Nam, Sang và Vạn, ba người học một trường. Trong những năm kháng
chiến chống Pháp trường trung học Trần Cao Vân tại Thanh Hóa qui tụ những thành
phần sinh viên ưu tú từ nhiều gia đình cấp tiến trên đất nước về học. Hà Nội vào,
Huế, Quảng Trị ra.
Nam thuộc gia đình trung nông. Thân sinh của Nam có một thửa
ruộng ba mẫu tại huyện Triệu Phong do cụ cố để lại. Ông cày cấy mỗi năm đều đặn
hai mùa, một mùa khô và một mùa lúa ướt đủ hoa lợi nuôi ba người con, hai trai một gái. Nam là
con đầu. Quen nếp sống nông thôn, đất đai của mình mình làm mình sống nên thân
sinh của Nam không quan tâm đến vấn đề chủ quyền quốc gia. Ông nghe nói người
Pháp bảo hộ nước Việt Nam nhưng đó không phải là điều làm ông nghĩ ngợi. Chung
quanh ông là quan huyện, ông chánh tổng, ông lý trưởng rồi đến tuần đinh ai
cũng có thể hách dịch với một nông dân như ông. Một hôm ông ngà say sau buổi
tiệc cưới của cô cháu gái ông chữi đổng ông lý trưởng hách dịch, ông lý trưởng
cho tuần đinh trong làng bắt và cùm ông một đêm tại điếm canh trong làng. Nội
vụ đưa lên tỉnh và ông được thả ra theo lệnh của ông công sứ Lavignon, bãi miễn
mọi vi phạm nhẹ về hình trong năm đó. Tại Quảng Trị đang có nhiều hoạt động
chống chính phủ bảo hộ nên Pháp muốn mua chuộc dân. Sau vụ đó ông tìm hiểu và
biết rằng ông huyện, ông chánh tổng, ông lý trưởng chỉ là cấp thừa hành của bộ
máy cai trị của người Pháp. Đầu năm 1947 khi Pháp tái chiếm Việt Nam ông cho
Nam, lúc đó mới 16 tuổi, thoát ly gia đình. Nam vào lớp tám, hệ trung học mười
năm trường Trần Cao Vân.
Sang nhỏ hơn Nam
hai tuổi, Ông cụ thân sinh xuất thân là giáo viên tiểu học huyện Vĩnh Linh bên
kia sông Thạch Hãn. Mẹ Sang là thứ nữ của quan tuần vũ Quảng Trị. Bà gặp cha
Sang trong một dịp cha Sang được quan đốc học tỉnh phái đến tỉnh đường làm
thông ngôn cho quan khâm sứ khi ngài
khâm sứ thanh sát tỉnh. Cuộc gặp gỡ dẫn tới tình yêu và hôn nhân. Tuy làm rễ
quan tuần vũ cha Sang là người có chí hướng. Năm quân Pháp trở lại tái chiếm
miền Trung, ông gởi Sang theo một người chú ruột ra Bắc. Đến Thanh Hóa, ông chú
nhận một công tác khẩn cấp phải đi ngay, gởi Sang vào trường Trần Cao Vân nhờ
một đồng chí coi sóc.
Vạn cùng quê với
Nam ở Triệu Phong, trạc tuổi Sang. Vạn mồ côi cha được bà dì ruột mang về Huế
nuôi cho ăn học. Sau cách mạng tháng 8, Vạn làm đoàn trưởng đoàn thiếu niên
tiền phong thành phố Huế. Sau ngày toàn quốc kháng chiến Vạn làm liên lạc viên
cho ông Lê Tự Đồng khi các đơn vị của
ông Đồng bao vây quân Pháp đóng tại Huế. Khi mặt trận Huế vỡ đơn vị ông Lê Tự
Đồng kéo ra bắc Huế, ông Đồng gởi Vạn ra Thanh Hóa tiếp tục học.
Cùng quê, cùng hoàn cảnh, và có cùng ước nguyện học thành tài
gia nhập giải phóng quân theo chân các bậc đàn anh đánh Pháp, nên Nam, Sang và
Vạn thân nhau như anh em ruột tuy học khác lớp nhau. Nam học hơn Sang và Vạn
một lớp. Ngoài 20 giờ một tuần ở trường Nam, Sang và Vạn ít có thì giờ với
nhau, họa hoằn mới có cơ hội rũ nhau ra một cánh đồng nhỏ cạnh trường chơi bóng
đá. Ngoài giờ học Vạn lên rừng lấy củi kiếm tiền ăn học. Nam may mắn hơn, kèm
dạy tư cho nhà bà Liễu, một gia đình còn phong lưu từ Huế ra. Sang thì giúp
trông coi đường tải gạo từ quê lên tỉnh cho các đơn vị đồn trú tại Thanh Hóa.
Ở Thanh
Hóa ai cũng biết gia đình bà Liễu. Bà có ba cô con gái đẹp. Lan, cô chị, và hai
cô em Kim và ngân. Từ Huế ra trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến bà Liễu
mua một căn nhà tại một khu vắng vẻ của thành phố, trên đường Hàng Thông, hai
bên đường trồng toàn thông. Nam dạy kèm ở nhà bà Liễu qua sự giới thiệu của một
giáo viên trường Trần Cao Vân. Lần đầu tiên đến nhà bà Liễu - số 44 Hàng Thông
– để nhận dạy kèm cho Lan, Nam thấy một ngôi nhà gạch mới được tu sửa như mới.
Cỗng nhà có hai cánh cửa gỗ hé mở đủ ra vào. Qua một chiếc sân đất rộng bước
lên mấy bậc thềm lủng lẳng mấy lẵng hoa lan đã hết mùa chỉ còn lá xanh nho nhỏ
tủa thẳng lên trần hiên. Bước vào phòng khách, trần nhà cao thoáng mát. Sau
phòng khách là các phòng ngủ và sau nữa là nhà bếp. Mỗi cô gái của bà Liễu có
một phòng ngủ riêng vừa dùng làm phòng học. Phòng bà Liễu rộng hơn, cửa trông ra
cửa phòng của các con. Từ phòng khách nhìn ra cổng hai cây thông lớn vi vu theo
gió, lá thông nhỏ như những sợi chỉ mầu vàng nhạt có bàn tay tinh nghịch nào
cắt ngắn rãi trên sân nhà, nhiều chỗ còn thấy rêu phong. Sau lưng nhà qua một patio
lợp bằng lá kè là một thửa đất rộng cỏ lác đác mọc được giới hạn bởi một hàng cau dưới gốc là những bụi hồng
già đủ màu sắc trồng lẫn lộn với hoa dâm bụt đỏ. Sau hàng cau là một đường
mương cạn phân ranh với vườn nhà bên.
Bà Liễu được giới chức thành phố kính
nể. Không biết ông Viên chồng bà Liễu làm gì, thỉnh thoảng thấy ông cỡi ngựa về
thăm nhà trong chốc lát rồi ra đi, có một vệ sĩ cũng cởi ngựa đi theo, và một
viên chức thành phố tháp tùng. Trước
chiến tranh ông là chủ một xưởng đúc lớn ở Huế. Năm 1945 ông lãnh nhiệm vụ đúc
tiền cho chính quyền mới, và từ năm 1946 ông lo việc sản xuất vũ khí cho quân
đội giải phóng. Người ta đồn người Pháp lùng bắt ông rất dữ. Vốn là chủ lò đúc,
ông để dành được một ít tiền của nên sinh hoạt gia đình bà Liễu thoải mái.
Người con trai thứ, Hùng, được gởi sang Liên xô học lái máy bay. Cô Trà, trưởng
nữ, đi du học tại Pháp trước năm 1945. Bà Liễu sống với ba cô con gái xấp xỉ
tuổi nhau tại Thanh Hóa. Lan 15, Kim 13 và Ngân 12 tuổi. Ba cô nổi tiếng là ba
bông hoa của thành phố. Ở Thanh Hóa, 44 Hàng Thông còn có nghĩa là những người
đẹp ở đường Hàng Thông.
Lần đầu tiên gặp
Lan, Nam thấy Lan đẹp một cách kín đáo, vừa mời gọi, vừa xua đuổi. Nam cảm thấy
tự hào được làm thầy của Lan và tự hứa sẽ đem hết khả năng chỉ dẫn Lan. Năm ấy
Lan học lớp sáu trung học. Nhưng, ngay từ phút đầu, như một linh tính, Lan dè
dặt đối với Nam. Thái độ của Lan có một chút kiểu cách. Lễ độ, quý trọng những
giờ Nam đến giảng bài, hỏi những gì cần hỏi và chăm chú nghe Nam trả lời, nhưng
Lan không lộ vẻ cung kính thường thấy giữa thầy và trò. Lan ý thức được vị
trí của mình.
Lan thông minh, học
đâu nhớ đó và Nam nghĩ Lan không cần một người kèm dạy. Nhưng Nam không xin
thôi. Những giờ đến 44 Hàng Thông trở thành sinh hoạt hằng tuần không thể thiếu
đối với Nam. Tính ít nói, dè dặt nơi Lan bao phủ quanh Lan một cái gì bí hiểm
cần khám phá, càng lúc càng kích thích tính tò mò của Nam. Giữa những lúc giảng
bài thỉnh thoảng Nam hỏi Lan về trường, về lớp, về bạn. Lan trả lời vừa đủ
không để hé lộ một tình cảm gì đặc biệt. Nam nghĩ Lan có một đời sống nội tâm
phong phú, có cá tính mạnh và biết kềm chế hơn là một thiếu nữ vô tình. Tình
cảm của Nam cứ vậy nảy nở theo thời gian.
Một hôm Lan hỏi một bài toán khó, Nam
đang suy nghĩ chọn một cách giải thật gọn thì Lan đã tìm được cách giải. Nam
khen Lan thông minh. Lan phấn khởi mang chuyện thân phụ kể cho Nam nghe như
ngầm bảo nàng hấp thụ sự thông minh của cha. Nàng kể chuyện cha đã sáng chế
nhiều kiểu súng mới biến cải từ loại súng mousqueton của Pháp, đã sáng
chế một thứ ngòi nổ mới của lựu đạn làm cho sác xuất nổ của lựu đạn rất cao.
Hồi đó lựu đạn hay bị tịt ngòi không nổ làm cho nhiều chiến sĩ vây đánh quân
Pháp tại khách sạn Morin phải bỏ mình. Pháp biết ông Viên là một nhà sáng chế
giỏi nên khi kéo quân từ cửa Thuận An lên giải tỏa thành phố Huế Pháp đã bỏ
tiền mua tin tức và phái một trung đội
chuyên công tác lùng bắt ông. Lan kể lại có một lần ông bị lộ trong khi
đang chờ tiếp liên tại làng Kế Môn để đi Quảng Bình, một đơn vị Pháp đến bao
vây làng. Ông núp trong hầm bí mật đào dưới một bụi rậm và nghe rỏ tiếng lá
khua sột soạt khi mấy nguời lính Pháp đi qua vừa quơ súng vào bụi vừa nói
chuyện. Nam lơ đãng nghe Lan kể chuyện, cố tìm ra một chút tình cảm dành cho
mình trong câu chuyện của cha nàng.
Bà Liễu dành nhiều cảm tình cho Nam.
Thỉnh thoảng bà mời Nam ở lại ăn cơm tối và tạo không khí để Nam và Lan có thể
trò chuyện thân mật với nhau. Bà biết trong những giờ kèm bài cho Lan không khí
giữa hai người có một chút gì căng thẳng. Bà biết con gái của bà tính tình hiền
lành, nhưng kiêu kỳ và tự hào quá đáng về gia đình. Thấy các cô con gái lớn lên
bà nghĩ đến tương lai của các con. Thời chiến tranh, thứ tự giai cấp của xã hội
thay đổi, cái giá trị của một người con trai không còn là dòng dõi, giàu sang,
của chìm của nổi mà ở nơi ý chí và phong độ. Bà thấy Nam có đủ cả hai. Đẹp
trai, con nhà nghèo, thoát li gia đình sớm, học giỏi. Mùa hè năm 1948, Nam lãnh
giải thưởng học lực và hạnh kiểm lớp chín trường Trần Cao Vân cả thành phố
Thanh Hóa ai cũng biết. Nếu trời đất xui khiến hai đứa thương nhau thì bà cũng
được yên tâm. Ngoài Lan bà còn hai cô
gái khác ở nhà phải lo chưa nói đến cô gái lớn đang học ở xa.
Tháng
năm, thành phố Thanh Hóa nóng như lửa. Hôm nay Thứ Bảy giảng bài xong Nam sắp
về thì trời đổ mưa. Cơn mưa chiều ào ạt
đổ xuống chỉ trong chốc lát nước đã đầy đường mương sau nhà. Nam đang
phân vân thì bà Liễu nghiêng đầu vào cửa phòng hé mở nói:
“Trời còn mưa, cháu ở lại ăn cơm, rồi
xem có gì giảng thêm cho em, tối hãy về.”
Lan định nói với mẹ Lan không cần giảng
thêm, nhưng nhìn qua cửa sổ thấy mưa còn nặng hạt nàng im lặng.
Nam do dự một chút trả lời:
“Dạ, hôm nay cháu cũng rảnh, Lan cần
gì thêm thì cháu giúp.”
Cơm xong Nam và Lan vào phòng học. Bà
Liễu kéo nhẹ cánh cửa cho kín hơn để tránh gió cho con gái. Hiểu ý mẹ, Lan nói
với Nam:
“Có mấy cuốn sách ba cho em để trên kệ
sách, thầy lấy mà đọc, sách hay lắm. Em có cái áo đan dở.”
Nói xong Lan cúi người kéo cái giỏ may
dưới chiếc bàn học. Nam nhìn Lan. Cái ót trắng ngần của Lan lấm tấm tóc mai.
Chiếc áo sơ mi trắng dài tay bó sát lưng để hằn lên đường viền của chiếc nịt vú
cũng mầu trắng. Trong giỏ may có một tà áo len mầu bót-đô còn dính vào
hai que đan bằng nhựa mầu hồng. Lan bỏ thêm mấy búp len vào giỏ, mặc thêm chiếc
áo len tay dài mầu xanh thẩm, kéo một chiếc ghế mây để sát cửa sổ nhìn ra vườn,
ngồi xuống đan áo.
Nam hơi lúng túng, đẩy cánh cửa hở
thêm một chút, bước lại kệ sách của Lan lướt mắt rồi nhẹ nhàng kéo ra cuốn Phan
Bội Châu của Trần Thanh Mại đến ngồi nơi chiếc ghế thường ngồi giảng bài cho Lan
đọc sách.
Mưa tạnh dần, nước mương sau nhà chảy
róc rách, khí trời dịu hẳn, nhưng Nam không thấy thư giản. Sự im lặng của Lan
làm Nam khó chịu.
“Lan đang nghĩ gì?” Nam tự hỏi.
Câu hỏi cứ ám ảnh những trang sách Nam
đang đọc. Giữa hai người bỗng nhiên có một sự xa cách ngột ngạt Nam chỉ mong
chóng trôi qua, trả lại cho Nam những buổi giảng bài thường lệ hằng tuần để Nam
được ngồi bên cạnh Lan nghe thấy bộ óc Lan vận dụng theo dõi lời giảng của Nam.
Ghi dấu trang đang đọc, gấp sách lại,
Nam ngước đầu nhìn Lan. Làn gió mát sau cơn mưa thổi nhẹ qua cửa sổ làm tóc Lan
bay lòa xòa trước trán. Nam hỏi:
“Em đan áo cho Ba hả? Mầu bót-đô em
chọn đẹp quá”
“Không,
Ba có đủ áo dùng. Em đan áo cho chiến sĩ bảo vệ thủ đô,” Lan ngừng đan, ngẫng
đầu nhìn Nam trả lời, không lộ vẻ ngạc nhiên, như đoán trước câu hỏi của Nam.
“Quân Pháp đã chiếm Hà Nội, quân ta đã rút lên
Việt Bắc, đâu còn thủ đô mà bảo vệ.” Nam cắt lời.
Không ghi nhận sự hậm hực trong câu
nói của Nam Lan nói:
“Người chiến sĩ lên Việt Bắc đã lâu và
cần áo cho mùa đông sắp đến. Anh ấy là Dũng, người chiến sĩ bảo vệ Ba.”
“Mầu bót-đô rất hợp với khung
cảnh mùa đông của rừng núi Việt Bắc.” Nam nói không suy nghĩ, mở cuốn sách đọc
tiếp. Những dòng chữ nhòa dần trên trang sách.
Nam gặp Dũng một lần khi ông Viên về
thăm nhà cách đây hai tháng, vào một hôm Nam đang giảng bài cho Lan. Dũng tuổi
độ hai mươi. Mặc áo chẽn bộ đội chính qui, mang súng ngắn, hùng dũng khi xuống
ngựa trước ngõ, cột ngựa dưới gốc thông, đẩy nhẹ cánh cửa giúp ông Viên kéo
ngựa vào sân. Nghe tiếng ông Viên, Lan bỏ phòng học chạy ra sân. Nam bước theo.
Ngoài sân bà Liễu, Kim và Ngân đang xúm xít quanh ông Viên. Dũng im lặng mĩm
cười hài lòng nhìn các cô tíu tít quanh ông Viên như một người anh nhìn đàn em
khi ông vừa xoa đầu vừa hôn vào mái tóc của các cô con gái. Nam thoáng thấy,
qua vòng tay của ông Viên, Lan nhìn Dũng một cách thán phục như thèm khát đời
sương gió của người chiến sĩ trẻ tuổi. Nam thấy mình nhỏ bé bên cạnh Dũng.
Nhìn ra cửa sổ mưa đã tạnh. Nghe tiếng
guốc bà Liễu ngoài nhà Nam gấp cuốn sách đẩy nhẹ vào kệ sách, với tay lấy cặp
sách, nhìn Lan như muốn nói lời từ biệt. Lan nghiêng đầu nhìn Nam. Nam đẩy cửa
lách ra ngoài, chào bà Liễu rồi nhảy lên xe đạp đạp nhanh ra cổng. Trời vừa
tối. Những vì sao lấp lánh ẩn hiện trên bầu trời sau mấy nhành thông. Qua đường
Hàng Thông, Nam rẽ vào đường Nguyễn Công Trứ hai bên là những thửa ruộng còn
đầy nước, tiếng ễnh ương nghe như tiếng vọng từ âm phủ.
Nam suy nghĩ mông lung về đến nhà lúc
nào không hay. Nam không nhầm lẫn được sự vô tình của Lan dành cho mình. Nam
lan man ý tưởng đi xa, đi thật xa, thử thách với định mệnh và để quên. Để
nguyên quần áo Nam lên chiếc giường tre kéo vội chiếc mền bông đã cũ đắp ngang
mình. Nam không ngủ được, tiếng gió sau cơn mưa đập phành phạch vào phên nhà,
mơ màng thấy mình khoác tay nhau đi chơi với Lan trên một cánh đồng đầy hoa hổ
ngươi, mỗi lần đạp chân qua, cánh lá xanh xanh
nhỏ li ti e lẹ khép lại làm Lan cười khinh khích thích thú. Qua một mô
đất Lan mất thăng bằng té về phía Nam. Nam đưa hai tay đở thân thể của Lan lòng
tràn ngập hạnh phúc. Lan tránh đôi tay của Nam, cả hai mất thăng bằng ngã lăn
trên bãi cỏ còn ẩm mùi sương. Nam tỉnh lại, mồ hôi ướt đẫm trán. Chỉ là một cơn
mơ, dấu ấn của một nổi thất vọng vu vơ. Nam nằm đó mà người như đã xa cách với
thành phố Thanh Hóa, với hàng thông luôn luôn vui đùa trước gió như ngã ngớn
chào đón Nam mỗi lần Nam đến giảng bài cho Lan. Những ngày vui đã hết. Lan chỉ
là một hình bóng. Nàng đang mơ những chuyện anh hùng, đang dệt lụa may áo cho
người lý tưởng phương xa, đâu còn lòng dạ nào để ý đến tình cảm của ông thầy
nghèo dạy kèm nhà nàng để ăn học. Cái giai cấp người ta đang chủ trương cởi bỏ
vẫn còn là một thứ ngăn cách giữa con người.
Học
chưa xong lớp mười Nam nộp đơn thi và trúng tuyển vào trường bách khoa trung
cấp Tuyên Quang, ngành xây dựng. Tuyên Quang là vùng giải phóng. Từ Thanh Hóa
muốn đến Tuyên Quang phải lên thượng lưu sông Mã, băng qua Hòa Bình, Phú Thọ,
rồi ngược hướng bắc.
Hai năm nay Nam không kèm Lan nữa. Nam
giúp ông chủ tịch xã Bắc Sơn gần thành phố khai phá mấy mẫu đất của xã. Những
ngày trần mình dưới nắng làm Nam nhớ những ngày giúp cha làm ruộng ở Triệu
Phong và giúp Nam quên.
Trước khi lên đường Nam đến thăm bà
Liễu. Gặp Lan. Lan vừa độ dậy thì, như trái cây mới chín. Lan mặc đồ bộ may
bằng lụa mỏng mầu đen tuyền đủ để ẩn hiện chiếc áo lót bên trong, một thứ lụa
ít khi Nam thấy thiếu nữ Thanh Hóa mặc. Mầu lụa đen làm cho nước da trắng trên
khuôn mặt Lan trộn lẫn với ánh nắng chiều xuyên qua cửa phòng khách ửng lên một
mầu hồng nhạt như vừa được đánh một lớp phấn mỏng. Mái tóc dày mềm mại của Lan
lưa thưa rủ xuống trán, phía sau kẹp gọn gàng phủ xuống chiếc cổ vừa độ no
tròn. Lan đi đôi guốc sơn đen quai nhung làm nổi bật đôi bàn chân trắng của Lan
trên nền gạch. Lan chuyện trò với Nam như tiễn một người anh sắp đi xa, trên
môi giữ một nụ cười thân mật. Nam cảm
thấy vui vì lối trang phục của Lan và thái độ của nàng là một lời nhắn kín đáo
Lan hiểu tình cảm của Nam dành cho nàng.
Đưa Nam ra cổng bà Liễu an ủi Nam. Bà
khéo trách Lan. Nam biết bà thành thật. Nhưng bà có thể làm được gì khác hơn là
bảo đảm một cuộc sống đầy đủ và bình yên để các con gái bà có thể sống với
những ý tưởng lãng mạn của chúng. Bà hiểu nổi buồn của Nam, nhưng bà không giúp
được Nam. Bà không muốn ép con.
Đến
Tuyên Quang, Nam gặp Vạn đang học ngành nông nghiệp tại đó. Một năm nay Nam
không thấy Vạn đến trường.Vạn không nói gì với Nam trước khi đi. Nhưng Nam
không thắc mắc. Thời kháng chiến, kẻ đến người đi. Thanh Hóa là thị trấn nổi riếng
nhiều gián điệp của Pháp nên kín miệng là tốt. Nam thỉnh thoảng gặp Vạn ở nhà
bà Liễu. Vạn nói có họ hàng với gia đình bà Liễu.
Gặp Vạn, Nam cảm
thấy nhẹ nhõm. Những ngày nơi chốn rừng núi Tuyên Quang sẽ bớt cô đơn.
Vạn nói, thật ra Vạn không có họ hàng
gì với bà Liễu. Vạn theo đuổi Ngân, cô gái thứ ba của bà và khai họ hàng để lui
tới cho dễ.
Thấy Nam chú ý đến câu chuyện, Vạn
tiếp:
“Nhân một dịp đi Lăng Cô tắm biển mình gặp Ngân và mấy người bạn
của cô ta đang nghỉ mát ở đó. Một buổi sáng trời trong xanh, nắng chưa lên,
trên bãi cát trắng tinh mình thấy ba thiếu nữ
đi lại phía mình như ba nàng tiên
bỗng xuất hiện giữa chốn trần gian. Cô nào cũng quần dài trắng áo dài trắng,
nón Huế nghiêng nghiêng che tóc thề như đi học, nói cười ríu rít giả vờ như
không thấy mình. Cô đẹp nhất chính là Ngân. Sau này mình biết thêm gia đình
mình có quen biết với gia đình của nàng. Ông bà Viên gốc Kim Long. Không biết
bà Liễu và mẹ mình bà con thế nào, nhưng bà hay gọi mẹ mình bằng dì đưa mình lên ngang hàng với bà, và mấy cô con
gái của ông Viên tự nhiên gọi mình bằng cậu.
“Vì công tác ở Huế quá bận rộn, nhất là sau khi một số đơn vị
Pháp lên đóng tại khách sạn Morin, mình không còn thì giờ để nhớ đến chị em nhà
bà Liễu. Ra đến Thanh Hóa tình cờ mình biết gia đình ông Viên cũng đã tản cư ra
đó. Mình tìm tới thăm - có lần gặp cậu đang kèm cho Lan chị của Ngân ở đó. Bà
Liễu tiếp mình như một người cùng quê, còn Ngân lần nào thấy mình tới cũng bước
ra “thưa cậu, mời cậu vào chơi.” Tiếng thưa cậu làm mình cụt hứng. Mỗi
khi lấy lại được bình tỉnh mình nhắc khéo đến buổi gặp gỡ bất ngờ trên bãi biển
Lăng Cô và tâm sự đeo đẳng đến tận thành phố Thanh Hóa thì Ngân cười hồn nhiên,
tưởng như cậu Vạn đang nói tới một trong những người bạn của cô. Mình
chán Thanh Hóa trước khi xong trung học đệ nhất cấp cũng vì vậy. Lợi dụng
trường bách khoa Tuyên Quang tuyển học năm thứ ba trung học cho trường canh
nông mình nộp đơn thi và trúng tuyển. Ra đi bỏ lại sau lưng thành phố Thanh Hóa
và hình ảnh người thiếu nữ đó thật là buồn.”
Vạn ngừng kể, nhìn thật sâu vào đáy mắt của Nam rồi tiếp: “Nam
biết không? Trong số bạn của tụi mình Sang là người có phúc phận nhất. Kim, chị
của Ngân thương hắn mà hắn làm như không biết.”
Sang là học sinh hay vắng mặt ở lớp. Trường có chế độ riêng cho
Sang do ông Tâm, tỉnh ủy viên trưởng ty kinh tế Thanh Hóa, người bạn của ông
chú của Sang sắp xếp với nhà trường để Sang vừa học vừa giúp ông trong công tác
thu mua lúa gạo. Sang vắng mặt một tuần ba ngày để về miền quê công tác trong
đường dây thu mua thóc do ông Tâm phụ trách. Thanh Hóa là nơi thu mua lúa để
phân phối cho hai vùng kháng chiến phía bắc gồm Nam Định, Ninh Bình và vùng
Quảng Bình, Quảng Trị phía nam.
Sang gặp Kim trong một buổi trình diễn
văn nghệ tại làng Hòa Vân, ngoại ô Thanh Hóa. Hôm đó đoàn văn nghệ học sinh
trường nữ Thanh Hóa nhập với đoàn văn nghệ tỉnh đi ủy lạo chiến sĩ bị thương
đang dưỡng bệnh tại bệnh viện Hòa Vân. Đoàn thu mua của Sang đang có mặt tại
chỗ và phối hợp với đoàn văn công tỉnh do anh Phan phụ trách giúp vui. Anh Phan
trước kháng chiến là một nhà viết kịch nổi tiếng tại Hà Nội, nhân cơ hội có
Sang và Kim là hai nam nữ học sinh thành thị đã sáng kiến phóng tác tại chỗ một
vở kịch phỏng theo chuyện dài Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Sang đóng vai Phạm Thái, Kim
đóng vai Quỳnh Như. Vỡ kịch diễn phần đầu của mối tình đầy nước mắt lúc Phạm
Thái trên đường lưu lạc tá túc tại nhà quan tổng đốc tỉnh Lạng Sơn, cha của
Quỳnh Như. Yêu Quỳnh Như, Phạm Thái ra đi mang hình ảnh của người yêu trong
trái tim rực lửa đấu tranh.
Sang vốn nổi tiếng về môn văn và là một người có tài diễn xuất
bẫm sinh. Sang hòa nhập vào hình ảnh của Phạm Thái và diễn xuất một cách tuyệt
vời làm cho các thương binh khóc sướt mướt, tình yêu bừng dậy trong mỗi trái
tim, cùng với tình yêu quê hương và sức sống trai trẻ chỉ muốn lên đường giết
giặc. Kim cũng lột được tâm trạng của một thiếu nữ đài các đa tình trong vai
Quỳnh Như, nhưng không khỏi bị lu mờ trước tài năng của Kim trong vai Phạm
Thái.
Buổi
văn nghệ thay đổi cuộc đời của Kim. Hòa mình với khung cảnh của sân khấu
trước sắc đẹp quyến rủ của Kim trong vai Quỳnh Như, Sang cao hứng biến đổi
những lời anh Phan soạn sẵn thành những câu nói bóng bẫy mà Kim có cảm tưởng
như những lời Sang lợi dụng cơ hội để nói riêng với mình. Nhưng đối với Sang
chỉ là nghệ thuật. Sang chỉ muốn vở kịch thành công.
Trở về Thanh Hóa, Kim và Sang tìm gặp nhau. Nhưng Sang không đi
sâu vào mối tình thắm thiết của Kim. Mối tình giữa hai cô cậu học sinh trung
học trẻ tuổi có một vẻ đẹp khác thường trong không khí kháng chiến. Những lúc
Kim bày tỏ tình yêu thì Sang nói đến tình cảm đối với quê hương và trái tim
dành cho cuộc đấu tranh giành độc lập như một lời hứa đợi chờ. Sang mơ tưởng
những vùng đất xa vời, Mạc tư Khoa, Đông Đức, Tiệp Khắc, và mơ màng đến những
nơi xa lạ hơn như Paris, Geneve, Nữu Ước ... Sang xem tình cảm Kim dành cho
mình là một ân huệ để đó. Sang không xua đẩy đi nhưng cũng không đưa tay nhận
lấy.
Xong trung học cấp 2, Sang tham gia đoàn văn nghệ lưu dộng quốc
gia đi trình diễn từ vùng Cao Bằng Lạng Sơn cho đến tận những vùng trong đồng
bằng châu thổ sông Hồng chung quanh Hà nội. Hoàn tất công tác với nhiều bằng
khen thưởng, Sang được ông Tâm và ông Viên vận động đi Tiệp Khắc học.
Chiến cuộc trở nên ác liệt. Pháp được sự trợ giúp dồi dào của tổng
thống Mỹ Eisenhower, đã nâng cấp sân bay Quảng Trị từ đó phát xuất những cuộc
không kích càng lúc càng dữ dội vào thành phố Thanh Hóa. Ủy ban kháng chiến
Thanh Hóa ra lệnh sơ tán. Gia đình bà Liễu bỏ Thanh Hóa lên vùng Tam Điệp mua
một thửa đất dựng nhà để sống. Lan kết hôn với Công, một bác sĩ đang công tác tại đó sau khi biết Dũng
không còn nữa. Dũng tử trận trong một cuộc phục kích của quân Pháp khi một mình
bám một ổ đại liên chận đường truy kích để cho ông Viên thoát thân. Ngân thoát
ly nhập đoàn thanh niên xung phong, và trở thành người nữ đại diện tỉnh Thanh
Hóa chỉ huy đoàn dân công tỉnh.
Trong một chuyến tiếp tế
chiến trường Điện Biên đoàn dân công của Ngân có nhiệm vụ tải bộ phận rời của
đại bác bị không quân Pháp chận lại tại đèo Hòa Bình. Vì nhu cầu chiến trường
Ngân quyết định chọn một đêm không trăng cả đoàn vượt đèo. Ngân dẫn dầu doàn
dân công và nàng đã bỏ mình khi hằng loạt phi cơ được chỉ đường bằng trái sáng
đã ồ ạt bỏ bom và nả đại liên khi Ngân đang ở trên đỉnh đèo. Ngân hy sinh, nhưng
đoàn dân công và bộ phận đại bác cần thiết cho các đơn vị trọng pháo Điện Biện
đã vượt qua.
Riêng Kim, chiến cuộc không làm cho nàng ra khỏi giấc mộng Phạm
Thái, Quỳnh Như. Sang đi Tiệp Khắc không một lời từ biệt, không thư từ, và nàng
sống trong mong chờ. Trong một lá thư
ông Viên cho biết Sang sau khi đỗ bằng tiến sĩ triết học tại Viện triết
học Mác-Lênin ở Prague đã trở về Việt Nam và đang phụ trách giảng huấn cho cán
bộ cao cấp tại trường đảng tạm thời hoạt động trong vùng Hòa Bình vừa được giải
phóng.
Từ Hòa Bình về Thanh Hóa công văn quan
trọng được chuyển bằng ngựa phát một tuần một lần. Thư tín tư nhân chuyển bằng
xe đạp thồ phát hằng tháng. Mỗi tháng là một ngày chờ đợi của Kim. Kim có thư
đi nhưng không có thư trở lại. Ý tưởng quyên sinh như Quỳnh Như nhiều lần hiện đến với nàng trong giấc ngủ,
nhưng Kim không nở để mẹ đau khổ vì cái tang của Ngân còn nóng hỗi.
Xong năm cuối cùng của trung học, thấy sức khỏe của Kim không
tốt bà Liễu không cho nàng đi học xa
nhà. Lan đã theo chồng vào công tác ở Khu 5; ông Viên cũng ít về vì nhu cầu
chiến cuộc; sức khỏe của bà mõi mòn, bà cũng cần có người sớm tối bên cạnh.
Ngôi nhà số 44 Hàng Thông tươi vui đầy sức sống của tuổi trẻ vào những ngày mới
vỡ mặt trận bỗng trở nên hiu quạnh. Thỉnh thoảng người ta thấy bà Liễu đi chợ
một mình. Và Kim hay vắng lặng ngồi một mình bên bờ sông Mã.
Sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, cuộc kháng chiến toàn quốc
chuyển mình.
Một hôm ông Viên ghé nhà thăm bà Liễu và Kim. Ông là chủ nhiệm
một đoàn chuyên viên đi từ đồng bằng sông Hồng xuống Bình Trị Thiên có nhiệm vụ
bố trí chuyên viên chế tạo vũ khí theo nhu cầu của tình hình mới.
Bà Liễu nói với ông Viên:
“Ông phải làm gì giúp con, nếu không Kim nó chết mất. Ông có thể
khéo léo cho Sang nó biết tâm trạng của con không? Ít nhất ông cũng đã giúp anh
ấy đi du học.”
Ông Viên nói: “Còn tự ái gia đình. Tôi biết Sang từ khi ở Tiệp
Khắc về có được thư của Kim và biết tâm sự của Kim, nhưng lòng anh ấy dững dưng
thì mình làm sao được. Tôi giúp anh ấy đi học vì muốn đào tạo nhân tài cho đất
nước. Hơn nữa bây giờ anh ấy là nhân vật quan trọng của trường đảng, nói chuyện
tình cảm lúc này với anh ấy là trái chính sách. Anh ấy có mộng lớn và sẵn sàng
gạt một bên chuyện cá nhân. ”
Ông Viên suy nghĩ
nhiều. Trong đoàn chuyên viên của ông có nhiều kỹ sư tốt nghiệp ở Nga và Đông Đức. Ông có thể sắp xếp và bố trí
cho một người rễ tương lai ở lại công tác tại chỗ. Ông chọn Vĩnh, chuyên viên
về hầm hố chống bom. Vĩnh là con một cán bộ người Tày tại tỉnh Lạng Sơn. Ông
chết trên quốc lộ 4 trong chiến dịch giải phóng Cao-Bắc-Lạng. Chính phủ nâng đỡ
Vĩnh, người con trai duy nhất của ông và gởi Vĩnh du học Đông Đức.
Bà Liễu sắp xếp một bữa cơm chiều thân
mật. Vĩnh là người duy nhất trong đoàn được mời. Trong bữa cơm ngoài hai ông bà
Viên chỉ có Kim và Vĩnh. Vĩnh hiểu cảm tình đặc biệt thủ trưởng dành cho mình.
Kim đẹp, và dưới khuôn mặt buồn dồn nén bao nhiêu ngày tháng mong chờ làm cho
Kim càng đẹp. Vĩnh cố làm cho Kim vui, hỏi chuyện học hành, sở thích. Kim nói
chuyện tự nhiên với Vĩnh như nói chuyện với một người anh. Nhưng Kim chỉ nói về
Sang, về người thanh niên có tài về văn chương, hội họa, kịch nghệ và bây giờ
là giáo sư trường đảng. Nàng không dấu tình cảm của nàng dành cho Sang. Vĩnh
biết Sang trong thời gian du học tại Đông Âu. Hai người gặp nhau khi các nghiên
cứu sinh học ở Tiệp Khắc và Đông Đức được tổ chức đi thăm thành phố lịch sử
Leipzig. Sang là sinh viên xuất sắc nổi tiếng Đông Âu. Vĩnh còn nhớ dáng dấp
của Sang và sức thuyết phục tiềm ẩn nơi khuôn mặt lúc nào cũng sẵn sàng hội
nhập với khung cảnh chung quanh nhưng không quên giữ một nét riêng cho mình.
Anh dung hòa mà trầm tỉnh, mang một chút tự kiêu tin tưởng ở tài năng của mình.
Vĩnh thấy Sang là một thứ nam châm của phái yếu, những thiếu nữ đa cảm như Kim.
Vĩnh không hiểu tại sao Sang có thể vô tình trước một bông hoa như Kim. Vĩnh
biết một điều, Sang có nhiều tham vọng. Và bây giờ Vĩnh biết thêm quả tim của
Kim không dành cho ai khác hơn là Sang.
Nhận định được hoàn cảnh, Vĩnh giữ đủ
độ thân mật và quan tâm đến Kim để đáp lại lòng tốt của gia đình ông Viên. Với
một chút cố gắng Vĩnh có thể được ông Viên bố trí ở lại công tác ở Thanh Hóa.
Nhưng Vĩnh không muốn. Vĩnh không muốn giành một quả tim đã chọn người để hiến
dâng. Vĩnh mong bữa cơm chóng xong để chàng có thể chuẩn bị ngày mai lên đường.
Vĩnh không ác cảm với Kim nhưng Vĩnh thấy nơi Kim có một cái gì yếu đuối đáng
thương hại.
Ba
mươi năm sau.
Gia đình Sang, Nam và Vạn gặp nhau tại
thành phố Hồ Chí Minh trong một đại hội hằng năm của các cựu học sinh trường
Trần Cao Vân lớp 46-52. Học sinh Trần Cao Vân lớp 46-52 chết hơn một nửa trong
chiến tranh. Những người sống sót đa số đều có gia đình và địa vị trong xã hội.
Buổi họp do Kính, thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, một cựu học sinh Trần Cao Vân
tổ chức tại khách sạn Majestic nằm bên bờ sông Sài gòn. Majestic là một khách
sạn trước kia dành riêng cho các phái đoàn quốc tế và báo chí nước ngoài, bây
giờ thuộc quản trị của thành ủy dùng làm nơi tiếp các phái đoàn quốc tế và
trung ương.
Sang, Nam và Vạn
giới thiệu các bà vợ với nhau. Hân vợ Sang, trẻ hơn Sang chừng mười tuổi. Sang
phụ trách trường đảng từ năm 1960 cho
đến năm 1975 biệt phái tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, sau đó ở lại công tác
cho đến năm 1980, trở về Hà Nội làm việc trong Ban Bí thư trung ương đảng. Sang
gặp Hân trong một dịp về Huế phụ trách một khóa chỉnh huấn cho cán bộ cao cấp.
Hân là sinh viên năm thứ tư đại học Huế ngành khoa học tự nhiên được trường
phái đến lo chương trình du ngoạn cho các giảng viên ở xa. Trong một cuộc du
ngoạn bằng thuyền máy ngược dòng sông Hương đi thăm lăng tẩm của các vì vua
triều Nguyễn, Sang chú ý đến Hân. Bằng một giọng đặc Huế làm cho người sinh
trưởng ở xứ Huế đi lâu xa trở về cũng phải ngỗnh đầu lại, Hân giải thích tường
tận lịch sử lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn nằm hai bên bờ sông Hương.
Trên đường về, thuyền ghé chùa Thiên Mụ giải khát. Lời thuyết minh củaHân còn
thu hút tâm hồn Sang, cả hai đứng tần ngần dựa bờ thành chùa
Thiên Mụ trông xuống sông Hương đang cuồn cuồn chảy phía dưới quên cả đoàn du
khách đã xuống thuyền và đang chờ đợi người hướng dẫn. Trở về Hà Nội Sang viết
thư cho Hân. Một năm sau lễ cưới được cử hành tại Huế khi Hân vừa tốt nghiệp
đại học. Sang và Hân được hai con.
Kể chuyện cuộc đời
mình xong, Sang quay qua hỏi Tiên, vợ Nam:
“Anh chị đã được mấy cháu?”
Tiên, một thiếu phụ trông trẻ như mới
dậy thì, ngước nhìn Nam. Nam khuôn mặt đượm nét phong sương, nhưng còn tráng
kiện trông rất xứng đôi với Tiên. Thay lời Tiên, Nam thong thả kể lại cho hai
bạn cuộc đời mình.
Sau khi tốt nghiệp
cán sự xây dựng, Nam sung vào đoàn công
binh nhiệm vụ chính là duy trì đường sá để bảo đảm cho luồng tiếp vận từ Trung
quốc, và sau đó tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Bị thương ở chiến trường,
Nam được đưa lên Việt Bắc dưỡng bệnh trong hai năm. Sau khi bình phục Nam trở
về Hà nội, bấy giờ đã được giải phóng và công tác tại bộ Xây dựng.
Thời gian mới giải phóng, đường liên
lạc với miền Nam qua cảng Hải Phòng chưa đóng, tại Hà nội vẫn còn vài tiệm nhảy
mở cửa như níu kéo thời gian. Nhớ Lan, Nam tìm đến các tiệm nhảy mua vui. Tại
tiệm nhảy Lido trên đường Bà Triệu, Nam mê Tầm, một cô gái nhảy quê Bắc Ninh. Ở
trong đôi tay của Tầm dưới ánh đèn mầu và nhạc nhảy Nam không kiểm soát được
mình. Và hai người có một đứa con gái với nhau. Nam định cưới Tầm, nhưng Tầm đã
theo một thanh niên khác bồng con vào Nam trên chuyến tàu há mồm cuối cùng rời
Hải Phòng.
Sau năm 1975 Nam được chuyển vào Huế
giữ chức vụ trưởng khu công chánh phụ trách ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên. Nam vào Sài gòn nhiều lần cố ý tìm con nhưng không gặp. Bạn bè cho
biết Tầm đã mang con di tản ra nước ngoài. Tại Huế Nam kết hôn với Tiên con một
thương gia bị phá sản sau vụ đánh tư sản mại bản của chính phủ mới. Tiên là hoa
khôi của Huế. Nàng mới có 18 tuổi khi lấy Nam.
Sang quay sang nhìn
Vạn hỏi: “Còn bạn?”
Sang biết Xieng Kra vợ của Vạn là
người Lào nói tiếng Việt rất giỏi. Vạn
gặp vợ khi cùng công tác tại Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp tại Vạn Tượng năm
1970. Vạn được phái sang làm cố vấn nông nghiệp cho chính phủ Lào.
Vạn kể lại rằng sau
khi tốt nghiệp cán sự canh nông tại trường bách khoa Tuyên Quang, Vạn được phái
lên vùng Lao Kay, Lai châu phụ trách các dự án dẫn thủy nhập điền ở đó. Sau một
thời gian Vạn được gởi sang Vân Nam để tu nghiệp thêm về kỹ thuật dẫn thủy nhập
điền miền núi. Chương trình trường canh nông Tuyên Quang chú trọng nhiều vào
lối canh tác miền xuôi. Ở Lao Kay Vạn kết hôn với Vịnh, con gái đầu của ông
Tỉnh, thủ trưởng khu canh nông miền Tây Bắc. Ông Tỉnh người Việt gốc Trung hoa.
Ảnh hưởng của hai dòng máu Vịnh đẹp và đa tình. Vạn có hai con với Vịnh. Thời
gian Vạn tu nghiệp ở Vân nam, Vịnh buồn, bỏ Vạn để đi theo một người cố vấn
Trung quốc. Trở về Lao Kay, Vạn ở vậy nuôi con cho đến khi đổi sang Vạn Tượng
và gặp Xieng Kra. Kể xong Vạn nhìn Kra. Kra cười hồn nhiên.
Trên sân khấu ca sĩ Hồng Vân đang hát
bài Thiên Thai của nhạc sĩ Văn Cao. Ba người bạn kéo nhau ra quầy lấy rượu và
không ai bảo ai kéo đến một góc phòng cạnh một chiếc cửa sổ lớn có chắn kính
trông ra bờ sông. Hân, Tiên và Kra kéo ghế xích lại gần nhau.
Trời đã tối. Bên kia bờ Thủ Thiêm đèn
đã lên phản chiếu ánh sáng trên mặt nước sông Sài Gòn đục ngầu hắt lên bầu trời
đầy mây như báo trước một cơn giông.
Tiếng hát thánh thót của bài nhạc trữ
tình đưa Nam, Sang và Vạn về những kỷ niệm xa xưa.
Vạn hỏi Nam:
“Cậu có tin tức gì về mấy chị em Lan
và Kim không?”
Không chờ Sang, Nam trả lời Vạn:
“Nghe đâu Kim đã có mấy đời chồng. Và
chỉ ở với mỗi người một thời gian. Cô ấy không thể sống một mình nhưng lại bị
bệnh dị ứng đàn ông. Năm 1954, khi bộ
đội vào tiếp thu Hà Nội, Kim xin mẹ về Hà Nội chơi, rồi lén về Hải Phòng vào
Nam”
Kể đến đó Nam ngước mắt nhìn Sang ngầm hỏi có
biết gì thêm về Kim không.
Sang thở dài chậm
rãi:
“Cố đô Huế với dòng máu lãng mạn của
bao nhiêu đời quan lại tội lỗi đã tích tụ nơi người thiếu nữ bất hạnh đó”
Sang nói tiếp rằng từ miền Bắc về Huế
Sang được một người bạn cho biết năm 1975 Kim theo một viên chức của tại tòa
đại sứ Mỹ tại Sài gòn di tản qua Mỹ và hiện nay đang sống tại New York. Vẫn
sống một mình và không có con cái.
“Còn Lan?” Vạn
lại hỏi.
Nam kể rằng: khoảng năm 1953 bác sĩ
Công chồng Lan ngoại tình với một y tá trẻ tuổi người Hà Nội công tác tại bệnh
viện Khu 5 và Lan bỏ Công. Hình như Lan có một con với Công, giao cho ông nội
săn sóc. Sau năm 1975 Lan vào Nam và sau đó được Trà, chị ruột ở Pháp bảo lãnh
qua Pháp. Lan tái giá, không có con và nghe đâu
cũng không có hạnh phúc gia đình.
Ba ly rượu vừa cạn.
Ngoài cửa sổ cơn giông bắt đầu tới. Ba người bạn nhìn nhau như cùng một ý nghĩ:
nếu giòng đời trôi theo một lối khác thì cuộc đời của Lan, Ngân và Kim có khác
gì không? Hay giữa Quảng Trị và Huế cứ tiếp diễn những mối tình trắc trở bất
tận như tình sử bên sông Ô Lâu của công chúa Huyền Trân.
Mưa rơi nặng hạt. Cơn mưa quen thuộc ồ
ạt chóng tàn của chiều hè Sài Gòn.
Trần Văn Sơn