BÈO  GIẠT

Chân ước chân ráo vừa từ trại tị nạn Hồng Kông đến Hoa kỳ, nhờ một người bạn cũ giới thiệu, Tùng xin được một chân xếp sách tại thư viện đại học Stanford, Tùng bắt tay vào việc thuê chỗ ở. Căn nhà Tùng mới thuê nằm ở tầng thứ hai của cư xá Pinewood trong vùng Oakland cách khu đại học Berkeley tám dặm về phía nam. Bà chủ nhà là một người Mỹ gốc Nhật, sinh đẻ tại Mỹ, có một cái tên khó nhớ, bà Mushu. Cư xá gồm một tầng trệt và hai tầng lầu, mỗi tầng có tám căn, bốn căn nhìn ra đường Coolidge, bốn căn trông ra một công viên cũ, mùa hè chỉ thấy chim, mùa thu chỉ thấy lá rụng, không thấy người đi dạo mát, ngay cả vào mùa hè nắng gắt. Tùng nghe người chung quanh đồn rằng công viên Clark có ma. Trước kia Clark là một công viên yêu thích của dân thành phố Oakland. Suốt năm, trừ những ngày mùa đông khá lạnh trong tháng giêng và tháng hai, lúc nào công viên cũng có bóng người, ríu rít tiếng trẻ nhỏ nô đùa và những cặp tình nhân sinh viên đại học Berkeley. Chồng bà Mushu, cũng sinh tại Mỹ, một thương gia thành công trong ngành địa ốc ở bang Washington. Đến tuổi nghỉ hưu ông bà Mushu chọn vùng vịnh của bang California khí hậu ôn hòa để tránh cái mưa dầm của vùng Seattle. Ông bà mua một biệt thự năm phòng nằm trên một ngọn đồi khuất sau những cây thông già cao vút vùng ranh giới OaklandBerkeley nhìn ra vịnh San Francisco. Không lâu sau đó ông bà mua cư xá Pinewood cho thuê, nơi Tùng vừa dọn đến. Ông bà Mushu thích công viên Clark. 'n định xong ông Mushu kiệt lực, và qua đời sau một cơn đau tim. Mùa hè năm 1967 sinh viên đại học Berkeley thường tụ tập nơi công viên Clark để hoạch định và xuất phát các cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Một buổi sáng một cụ già thuê phòng ở tầng thứ hai  mở cửa sổ nhìn ra công viên bỗng thấy xác hai thanh niên nam nữ trẻ tuổi treo lủng lẳng trên một cành thông lớn. Theo báo địa phương đó là Michael và Jane, hai sinh viên đại học Berkeley, lãnh tụ phong trào sinh viên phản chiến. Tin đồn lớn dần chung quanh cái chết của Michael và Jane. Họ chết vì tình? Cha của Michael là một đại tá không quân đang chiến đấu tại Việt Nam nghe tin con lãnh đạo phong trào phản chiến, ông cúp tiền học và cấp tốc ra lệnh Michael bỏ học trở về quê ở Detroit. Michael không muốn xa Jane, và hai người tự vận. Tin đồn khác từ giới phản chiến. Michael và Jane đã bị giết để dập tắt phong trào phản chiến. Rồi cũng có tin vào những buổi chiều âm u sương mù có người thấy hai bóng trắng tha thướt ẩn hiện trong công viên. Không một ai ở cư xá Pinewood xác nhận thấy bóng ma một lần, nhưng từ đó công viên Clark vắng bóng người.

Bà Mushu cũng từ đó bỗng đổi tính. Bà giao ngôi biệt thự trên đồi thông cho con gái trông coi, dọn về cư xá Pinewood. Bà lấy một phòng ở tầng hai góc trái trông ra công viên. Bà gắn một thang máy dùng riêng cho bà lên xuống. Cô Susan, con gái bà khi đến thăm cũng dùng các bậc tam cấp như những người thuê phòng. Ông John, một người cháu của bà cùng vợ và hai con ở một căn góc bên phải ở tầng trệt quản lý cư xá giúp bà. Ông John lo việc cho thuê tầng trệt, tầng ba và 4 căn tầng hai nhìn ra đường Coolidge và kế toán sổ sách. Bà Mushu dành việc đích thân cho thuê 3 phòng còn lại ở tầng hai trông ra công viên. Không ai hiểu lý do bà dành công việc đó. Không biết ông John có biết không, nhưng không ai hỏi và ông cũng chẳng hé răng. Ba căn phòng của bà Mushu sau bao nhiêu năm vẫn còn trống, các căn khác ông John đã cho thuê hết.

Khi Tùng dọn vào người thuê nhà trong cư xá nhìn Tùng một cách tò mò. Đã lâu lắm không thấy ai dọn vào dọn ra. Sự tò mò làm Tùng nhớ hôm gặp bà chủ nhà. Ông John dẫn Tùng vào phòng bà Mushu nói ông Tùng muốn thuê nhà rồi rút lui không thêm một lời nào. Phòng khách bà Mushu trang trí theo lối Nhật Bản. Một bàn vuông thấp đặt trên một tấm thảm mầu đỏ gạch, chung quanh có hai chiếc ghế thấp đan bằng mây đáy ghế sát mặt thảm có lưng dựa. Hai góc phòng đặt hai chiếc ghế chân cao dành cho khách. Bà Mushu ngồi gần như bất động trên chiếc ghế thấp ngả người vào lưng tựa, hai chân duỗi thẳng dưới chiếc bàn thấp. Bà mặc một chiếc váy màu vàng điểm những chấm đỏ tròn. Một chiếc áo tay dài trắng toát che kín cổ bằng hàng nút khép chặt trước ngực. Ánh sáng trong căn phòng vừa đủ sáng để Tùng nhận ra một bức tranh lớn vẽ cảnh hoàng cung của Nhật hoàng tại Đông Kinh treo trên tường đối diện với chiếc cửa sổ độc nhất trông ra công viên. Bức tường bên trái treo chân dung đô đốc Yamamoto. Bà Mushu chỉ tay mời Tùng ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng. Chiếc đồng hồ của một nhà thờ đâu đó thong thả điểm 10 tiếng. Bà Mushu nói:

"Anh đến đúng giờ. Đó là điều kiện thứ nhất." Bà hỏi tiếp:

"Anh học ở trường nào? Stanford hay Berkeley? Tôi không cho ai thuê nhà nếu không học hay làm việc ở một trong hai trường đó."

"Tôi làm việc ở Stanford" Tùng đáp.

"Thế thì tốt" Bà Mushu nói. "Anh đạt điều kiện thứ hai. Tôi cho anh thuê căn phòng bên cạnh, giống căn tôi đang ở, có sẵn đồ đạt. Tiền nhà mỗi tháng $300 đồng, trả hai lần một tháng, vào ngày 15 và ngày cuối tháng vào lúc 7 giờ chiều. Trả bằng chi phiếu cá nhân. Tôi không có thì giờ viết biên nhận. Anh không cần trả tiền cọc. Nếu trả trễ một ngày xem như chấm dứt khế ước thuê nhà. Đây bản khế ước. Anh đọc kỷ trước khi ký." Bà Mushu nói như ra lệnh không  chờ ý kiến của Tùng.

Bà rút trong chiếc ví da lớn để dưới gậm bàn ra một bản khế ước 3 trang đặt lên bàn. Tùng đứng lên cầm khế ước, mừng thầm thuê được căn phòng rẻ, hợp với túi tiền, không quan tâm đến các điều kiện. Tùng không bực mình về thái độ và cách ăn nói của người chủ nhà, thấy vui vui như đang đọc được một câu chuyện hay. Tùng lướt nhanh qua bản khế ước, mắt liếc nhìn tấm hình của đô đốc Yamamoto treo trên tường đối diện. Ông đứng trên đài chỉ huy Tư lệnh hạm của hạm đội hoàng gia Nhật trong bộ quân phục đô đốc hải quân trắng tinh, ngực đầy huy chương, nét mặt điềm tỉnh nhưng không dấu nét kiêu hùng, mắt hướng về chân trời sóng nước xa tắp, như thách thức bất cứ ai dám đương đầu với hải quân hoàng gia. Sau lưng ông lá cờ Nhật có mặt trời đỏ chói tỏa ánh sáng rực rỡ ra bốn phương trên nền trắng đang tung bay trước gió.

 Bắt chợt được sự chú ý của Tùng, bà Mushu hỏi:

"Anh có biết có một người hùng trong lịch sử Nhật Bản không?"

Tùng hờ hững gật đầu tỏ ý biết, nghĩ rằng bà Mushu hỏi cho có lệ. Tùng học sử về trận thế giới đại chiến thứ 2 còn nhớ đô đốc Yamamoto, người hoạch định tấn công Trân Châu Cảng không báo trước tiêu diệt trọn hạm đội Thái Bình Duơng của Hoa Kỳ, sau đó bị Hoa Kỳ trả thù giết trong một cuộc tập kích trên không ở miền nam Thái Bình Dương.

Bà Mushu nhắc lại: " Có không, Có anh hùng không?"

Tùng hơi ngạc nhiên, trả lời:

"Dạ có" vừa đủ Tùng nghe để làm vui lòng bà chủ nhà.

Bà Mushu lặp lại: "Anh hùng chứ. Anh nói cho tôi nghe 'anh hùng' đi."

Lần này Tùng ngạc nhiên thật sự, và như một cái máy Tùng nói, giọng không thoát ra khỏi cổ họng:

"Vâng anh hùng, thật là anh hùng."

Bà Mushu mĩm cười sung sướng. Bà lần tay trong chiếc ví nhỏ nằm trong chiếc ví da lớn rút ra một chiếc chìa khoá bằng đồng còn mới tinh như chưa bao giờ dùng đưa cho Tùng và nói:

"Đây chìa khoá nhà anh. Anh có thể dọn đến từ ngày mai, tiền thuê nhà tính từ đầu tháng tới. Nhớ một điều nhà cửa lúc nào cũng phải ngăn nắp sạch sẽ - có ghi trong khế ước - tôi sẽ kiểm soát hằng tuần."

Tùng định ngày mai dọn vào, lợi được một tuần nên không chú ý đến điều kiện mới. Bà Mushu già hơn mẹ mình khó tính một chút cũng chẳng sao. Tùng chưa quên những ngày ở trại tị nạn Hồng Kông. Mấy chú an ninh non choẹt ra lệnh gì cũng phải răm rắp tuân theo. Tùng gật đầu nhận chìa khóa, hứa ngày mai dọn vào rồi đứng dậy chào bà Mushu ra về.

Chưa ra khỏi cửa, bà Mushu gọi lại:

"Còn quên tôi chưa dặn anh, không được tiếp bạn gái trong phòng."

Tùng ngừng lại nơi ngưỡng cửa nhớ đến Thu, người vợ Tùng đang làm thủ tục bảo lãnh sắp sang. Tùng nói:

"Thưa bà, tôi có vợ!"

Như không nghe Tùng nói, bà Mushu nhắc lại:

"Anh nghe cho rõ. Tôi nói không được tiếp bạn gái trong phòng."

Rồi bỗng giọng bà trở nên thân thiết:

"Còn một điều không ghi trong khế ước, anh có thể thăm tôi mỗi ngày khi đi làm về. Anh cỡ tuổi con trai tôi nếu nó còn sống và biết kính trọng người lớn tuổi như anh".

Tùng trả lời "tôi hiểu" bước vội xuống thang lầu như để khỏi nghe thêm một điều kiện nào nữa.

***

Thu, người vợ mới cưới hai năm trước của Tùng đang chờ tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh phỏng vấn. Thủ tục đến giai đọan hoàn tất Thu càng quyến luyến quê hương. Trong mấy bức thư viết cho Tùng gần đây Thu ít nhắc đến nổi vui đoàn tụ với Tùng, trái lại chỉ nói đến sự chia tay với mẹ và hai người chị ruột. Thu quê Hà Tiên, gia đình không có con trai. Ba Thu có mấy cửa tiệm may âu phục và áo dài phụ nữ, làm ăn khá giả. Mẹ Thu lo quán xuyến gia đình. Hai người chị Thu đã lập gia đình và được ba Thu giúp mở cửa tiệm may riêng. Thu là con gái út được cưng chiều, và là con gái độc nhất trong gia đình được học hết cấp trung học. Nghĩ đến tương lai của Thu, ba mẹ Thu muốn Thu được ra nước ngoài để học thêm. Trong một chuyến về quê thăm nhà Tùng gặp Thu. Tùng tưởng là tình cờ, sau này Tùng biết do ba mẹ Thu sắp xếp qua một người bạn của chị Thu. Nước da trắng mịn, đôi mắt đen hiền lành nhìn thẳng vào người đối diện, chiếc mũi thẳng làm Thu đẹp một cách dịu dàng khiêm tốn. Tùng có cảm tình với Thu ngay khi được giới thiệu. Trái lại Thu xem Tùng như bạn. Được sống sung túc trong đôi tay cưng chiều của mẹ có hai chị và các cháu vui đùa  Thu không thấy thiếu tình cảm.

Hôn lễ cử hành xong, Thu về ở với mẹ Tùng. Nhà Tùng cũng ở thị xã Hà Tiên. Tùng còn mẹ và hai người em, một trai một gái. Em trai Tùng đi nghĩa vụ quân sự và đang đồn trú tại một đơn vị trên cao nguyên miền Trung. Em gái Tùng xấp xỉ tuổi Thu, chưa chồng ở với mẹ. Đêm tân hôn Thu để nguyên bộ áo cưới nằm xoay lưng lại Tùng khóc rấm rức. Thu nhớ mẹ. Tùng nghĩ thầm, cách mấy khu phố Thu đã vậy, sang Mỹ sẽ sao đây? Tùng không ép. Thu khóc chán rồi ngủ thiếp đi. Tùng ở lại Hà Tiên mười hôm trước khi trở lại Hoa Kỳ. Cuộc ân ái vợ chồng với Thu lần đầu tiên đã đến trong sự tự nhiên, không nài ép nhưng không làm cho Tùng cũng như Thu cảm thấy tuyệt đỉnh của thú yêu đương. Thu thấy như một thứ bổn phận. Nhưng cuộc ân ái làm hai người gần nhau hơn. Thu thôi không còn khóc rấm rức nữa, còn Tùng thấy bổn phận nặng nề hơn.

***

Mang hai chiếc vali vào phòng để lên sàn nhà, Tùng bước tới kéo cao chiếc màn bằng nhựa nơi chiếc cửa sổ trông ra công viên cho sáng nhà rồi vội vàng sang thăm bà Mushu. Bà ngồi đúng chỗ và đúng tư thế như hôm Tùng đến thuê nhà. Một thiếu phụ ngồi xệp trên chiếc ghế thấp đối diện với bà đang rót sữa nóng vào một chiếc cốc bằng thủy tinh có tay cầm. Chưa kịp hỏi người thiếu phụ chìa tay bắt tay Tùng giới thiệu:

"Tôi là Susan Mushu. Tôi đến thăm mẹ tôi hằng tuần và mang đến một ít thức ăn cho mẹ tôi. Mẹ tôi   nói đến anh. Chốc nữa tôi sẽ sang nhà anh xem có thiếu gì về phần chủ nhà để tôi sắm."

Tùng cảm ơn và ngồi ở chiếc ghế góc nhà. Tùng chưa kịp ngỏ lời vấn an bà Mushu đã chỉ bức tranh đô đốc Yamamoto lên tiếng:

"Nước Nhật có một người anh hùng chứ?" Bà nhấn mạnh mấy chữ "một người anh hùng" như ngầm thúc Tùng lặp theo bà.

Tùng lặp lại gần như vô thức:

"Vâng, có một người anh hùng."

Susan nhìn Tùng vừa ngạc nhiên, vừa biểu lộ cảm tình. Cô hiểu tại sao mẹ mình  mến người thuê nhà trẻ tuổi này. Susan thấy trong cung cách của Tùng có một cái gì khác hơn là sự phục tùng.

***

Bước vào phòng Tùng Susan và Tùng đứng trong phòng khách nói chuyện với nhau. Ánh sáng ban mai chiếu chan hòa qua cửa sổ. Susan nói:

"Tôi cảm ơn anh xử sự tốt với mẹ tôi. Bà vốn khó tính và khó tính hơn từ ngày công viên Clark có ma ít ai lai vãng. Bà bỏ ngôi biệt thự tráng lệ trên đồi thông dọn về đây để bảo vệ cơ sở của bà. Bà dành quyền cho thuê ba căn nhìn ra công viên cạnh phòng bà để cho những người bà tin cậy thuê. Điều kiện để bà tin cậy là sự tin tưởng tuyệt đối rằng đô đốc Yamamoto là đệ nhất anh hùng của nước Nhật. Bà kính phục đô đốc Yamamoto hơn cả vua Minh Trị. Bà không thích ở cạnh những người bà chưa hiểu tính tình. Dành căn phòng này cho anh chứng tỏ anh đã chinh phụ được bà. Tôi cũng cảm thấy an tâm."

Cảm thấy chưa đủ, Susan tiếp:

"Mẹ tôi rất khó trong quan hệ nam nữ như bà còn sống ở thập niên 30 hay 40. Tôi còn ở quá đến giờ này cũng vì mẹ tôi. Đi chơi với bạn trai bà biết bà chửi không tiết lời cho là thiếu giáo dục. Ba tôi không đồng ý với quan niệm cứng nhắc của bà nhưng chịu thua không kéo tôi ra khỏi ràng buộc của bà."

Susan cười bông đùa tiếp:

"Nếu tôi gặp anh sớm hơn mươi năm biết đâu mẹ tôi đã nghĩ khác. À mẹ tôi nói vợ anh sắp đến với anh phải không? Từ nước nào vậy?"

Tùng ngước mắt nhìn Susan trả lời: "Từ Việt Nam, chừng 3 tháng nữa".

Susan nói: "Ồ, Việt Nam hả? Một nước chiến tranh liên miên. Hồi còn sống ba tôi nói kinh tế Nhật Bản được phục sinh nhanh chóng hồi thập niên 60 cũng nhờ sản xuất xe cộ và súng nhỏ cho chiến trường Việt Nam. Tôi muốn có dịp đi du lịch nước anh một chuyến!"

Chuyền đề tài Tùng hỏi:

"Hằng ngày ai nấu ăn cho bà cụ?"

"Bà tự lo." Susan trả lời, "Và cũng chẳng khó khăn gì. Bốn năm rồi, sau khi mừng thọ cửu tuần mẹ tôi chỉ ăn thức ăn mềm trong hộp. Bà tự mở hộp, đổ ra bát, hâm nóng bằng microwave, dùng thìa múc ăn, vứt hộp không vào thùng rác. Mỗi tuần tôi mang thức ăn đến và pha sữa nóng cho bà. Từ hồi ba tôi qua đời mẹ tôi vẫn tự lo lấy một mình."

Nghĩ đến mẹ, Tùng nói:

"Để mỗi buổi chiều sang thăm tôi làm cháo nóng cho bà."

"Không được đâu ông Tùng. Mẹ tôi không tự làm được thức ăn cho bà thì bà chết thôi. Tôi muốn giúp bà cũng không cho." Susan trả lời vừa bước ra cửa.

Vừa lúc đó tiếng bà Mushu vọng sang: "Susan, Susan. Làm gì bên đó lâu vậy? Mày biết con gái chưa chồng ở lâu trong phòng một người đàn ông khác không tiện không?"

"Vừa xong việc, con về đây" Susan nói lớn. Hai người nhìn nhau mĩm cười.

Tiễn Susan ra cửa Tùng trở vào mở vali đồ đạt. Lúc này Tùng mới có dịp quan sát kỷ nhà mới thuê. Phòng khách nhỏ có bốn ghế dựa lót da mầu nâu thẩm xêáp chung quanh một chiếc bàn tròn lót kính bên trên có một bình hoa nhỏ có mấy cành hoa hồng còn tươi sắp xếp theo kiểu Nhật Bản. Bếp với phòng ăn là một, thông với phòng khách. Mặt bàn ăn lót kính có hai ghế gỗ. Bếp điện có hai khung nấu và một lò nướng nằm cạnh một chiếc tủ lạnh hiêảu GE. Phiá trên bếp điện có ba tủ gỗ đầy đủ bát chén và dụng cụ nấu nướng. Phòng tắm đối diện với phòng ngủ nằm khuất sau một lối dẫn từ phòng khách vào.

***

Hội Tị nạn quốc tế ở New York lo sắp xếp giúp việc chuyên chở bằng  đường hàng không thông báo cho Tùng biết chuyến bay Thu sẽ đến San Francisco. Họ dặn Tùng ra phi trường với giấy tờ chứng tỏ quan hệ giữa hai người. Tùng cũng nhận được một lá thư ngắn của Thu: "Anh Tùng. Hội ICM vừa gởi vé máy bay đi Hoa kỳ cho Thu. Hội nói anh biết chi tiết chuyến bay và sẽ đón Thu. Thu hơi lo vì lần đầu tiên đi xa một mình. Hẹn gặp anh. Thu" Lá thư không tỏ vẻ bồn chồn, không bộc lộ tình cảm, như việc Thu đến với Tùng là một việc trời sắp xếp vậy thì phải làm vậy thôi. Giờ này Thu nghĩ đến việc xa mẹ, xa chị em hơn là được gần Tùng. Mấy năm chờ đợi giấy tờ, trong khi Tùng đếm từng ngày, thư từ của Thu lác đác nội dung chỉ có vậy. Lời lẽ kín đáo cho Tùng thấy Thu có chờ cũng như một người khách chờ một đoàn tàu đến giờ sẽ tới. Tuy đã chung chăn chung gối, Tùng có cảm tưởng Thu chưa phải của mình. Thu còn là một vùng đất hoang chưa khai khẩn. Tùng biết quả tim Thu không dành cho ai, nhưng cũng chưa dành trọn cho Tùng.

***

Qua tấm kính lớn ngăn riêng khu di trú, Tùng thấy bóng Thu. Thu xách một xách tay nhỏ, bên cạnh một cô nhân viên hội thiện nguyện đang giúp làm thủ tục nhập cảnh. Tim Tùng đập mạnh. Thu mặt quần lĩnh, áo dài Việt mầu nâu nhạt may đúng kiểu ôm sát người nàng làm lộ hẳn da mặt trắng ngần của nàng bên cạnh những người đi định cư khác áo quần tự do, tay xách tay mang. Nghĩ ở đất Hoa Kỳ phụ nữ  Việt ít ai mặc áo dài khi ra đường Tùng lo lo. Thu bảo thủ lắm không? Có giống bà Mushu không? Nghĩ đến con gái của Tùng sau này ế chồng vì mẹ khó tính như  Susan Tùng thấy trán ướt đâãm mồ hôi.

Tùng nhớ một hôm sau khi sang thăm bà Mushu, Tùng thả bộ trên đường Green chạy dài theo công viên Clark. Mùa thu đã đến. Lá vàng lác đác rụng. Gió lạnh từ vịnh San Francisco thổi nhẹ vào vừa đủ rung những cành cây long não lưa thưa lá bên đường. Bên kia đường một cặp tình nhân tuổi đôi mươi nhàn nhã tản bộ. Cô thiếu nữ tóc vàng óng ánh. Bạn trai của cô đầy sức sống, yêu đời. Bỗng một chiếc xe thể thao Jaguar mui trần trờ tới. Thấy cặp tình nhân, chếc xe chạy chậm lại, ép sát lề đường, hai thanh niên trên xe ngỏ lời trêu ghẹo người thiếu nữ. Tùng đoán họ có quen biết nhau. Người thiếu nữ tỏ ý không bằng lòng. Bạn trai cô và hai thanh niên nặng lời qua lại rất căng thẳng. Họ dùng tiếng lóng để chửi nhau. Bôãng chiếc Jaguar ngừng hẳn lại, máy vẫn nổ, hai cánh cửa trước mở toang, hai người thanh niên phóng nhanh xuống đường như đã toan tính trước với nhau. Một người chạy đến một tay đè trên vai người thiếu nữ, tay kia thúc vào lưng dùng sức mạnh đẩy thiếu nữ lên xe. Người kia dáng bộ sẵn sàng hành hung dang tay đứng chận bạn cô. Tùng vừa lúng túng vừa hoảng hốt. Báo hằng ngày từng tường thuật các vụ sinh viên đoạt tình nhân, giết tình địch trong vùng vịnh San Francisco, nhưng Tùng không thể tưởng tượng được việc đang diễn ra trước mắt. Đường vắng teo, ngoại ngữ không thông, người nhỏ con, không  biết võ thuật Tùng cắm đầu chạy chưa biết phải làm gì. Vừa lúc đó một chiếc xe cảnh sát chạy đến, hai thanh niên da trắng nhảy lên xe phóng chạy. Xe cảnh sát hụ còi đuổi theo. Sự việc xẩy đến và chấm dứt nhanh như trên màn ảnh truyền hình.

Cảnh sát San Francisco lấy lời khai nhân chứng mấy ngày Tùng không mệt thể xác bằng âu lo khi nghĩ đến Thu. Tùng ý thức được Tùng phải có bổn phận che chở Thu. Ngoài việc sắm áo quần hợp thời trang cho Thu, chỉ cho Thu ăn mặc thế nào cho trang nhã để tăng vẻ đẹp tự nhiên của Thu mà không kích động người khác phái. Ra đường Tùng phải chỉ cho Thu đi bộ bên nào để tránh xe, phải học tiếng Anh văn viết cũng như văn nói kể cả tiếng lóng để đáp ứng trường hợp cần thiết. Và Tùng phải mang đến sự ấm áp cho Thu. Xa mẹ mấy hôm Thu đã khóc huống chi bây giờ  ngàn dặm xa cách, không người thân thích. Tùng biết Tùng có quả tim ấm áp đủ sức nóng sưởi ấm lòng Thu. Nhưng cần thời gian.

***

Dìu Thu lên xe, cài nịt, Tùng thấy Thu hơi xanh. Tùng hỏi: "Em đi đường mệt lắm hả?:

"Em không mệt vì máy bay. Máy bay bay rất êm. Em không ăn được thôi."

"Món nầy ăn không được còn món khác, sao em không chọn món nào ăn được mà ăn."

"Có rất nhiều món ăn và người ta cho ăn nhiều lần. Nhưng lên máy bay em tò mò uống chút sữa tươi bụng cứ lâm râm không dám ăn món nào nữa. Sợ ăn vào đi cầu nhiều bất tiện. Em ngồi ghế giữa. Các cô tiếp viên thấy em mệt cứ đến hỏi thăm hoài. Em không hiểu họ nói gì lúng túng càng thấy mệt hơn."

"Anh đã nấu một nồi cơm nóng và một tô cá kho tộ kho đúng kiểu Hà Tiên, thịt heo luột, bánh tráng, rau và nước chấm tuyệt vời. Về nhà em nghỉ một lát ăn cơm là thấy khỏe liền." Tùng nói.

Thu mĩm cười.

Đến nhà Thu mở hành lý đưa cho Tùng một lá thư của mẹ Tùng và quà của Thu. Hai bộ âu phục may ở Sài Gòn, một mầu đen cho mùa đông, một mầu sáng cho mùa hè, một khăn len quàng cổ đan tay mầu nâu nhạt và hai áo Montagu, một mầu xám, một mầu xanh nhạt. Thu nói áo quần may ở Sài Gòn rất rẻ. Áo Montagu, Thu giải thích, mặc mát và bạn Thu nói ở Mỹ người ta không bán hiệu này. Muốn mua phải nhờ bạn bè bên Pháp mua giúp. Thu không nói gì đến cái khăn quàng cổ. Tùng sung sướng biết Thu đã bỏ công đan cho mình. Tùng khen bàn tay nào đan chiếc khăn quàng quá đẹp và nhận ra vẻ hân hoan thoáng hiện trên nét mặt còn mệt mỏi của Thu. Tùng nghĩ bụng ít nhất mình cũng có một bữa cơm thuần túy Hà Tiên đãi Thu do chính tay Tùng làm.

Thu khen ngôi nhà xinh và gọn gàng. Tùng và Thu ngồi vào bàn ăn. Thu dè dặt trong từng động tác như nơi đây chưa phải nhà của Thu. Thu ăn chậm rãi, khen món cá kho tộ ngon. Nàng vừa ăn vừa nới bớt hai chiếc nút áo dài. Cử chỉ hội nhập đầu tiên. Tùng thấy lòng reo vui.

Hôm sau Tùng dẫn Thu đi chợ. Thấy Thu mặc áo dài, Tùng bảo:

"- đây em không cần mặc áo dài. Quần Jean, áo ngắn đủ rồi."

Thu cười, hiểu ý Tùng, nhưng không thay áo ngắn.

Tùng chờ đợi sự hội nhập của Thu vào đời sống mới, đời sống chung với Tùng, người chồng của nàng. Hai tuần trôi qua Thu vẫn còn như một người khách lạ. Mỗi chiều đi làm về Tùng biết Thu chờ đợi Tùng. Nồi cơm điện National tỏa hơi thơm phứt, hai chén, hai đôi đũa chờ sẵn trên bàn ăn, phòng tắm sạch bóng, hai chiếc khăn nhỏ xếp ngay ngắn. Và mái tóc Thu hôm nào cũng gội thơm phứt. Thu mang theo một bao chùm kết khô cất kỹ trong phòng.

Buổi sáng Thu dậy trước Tùng. Hôm đầu tiên bước vào phòng ăn Tùng thấy một tô cơm và một dĩa muối vừng như người Hà Tiên thường ăn buổi sáng trước khi ra đồng. Tuần hỏi vừng ở đâu ra, Thu trả lời Thu kiếm được trong tủ gỗ trên đầu bếp. Tùng cười nói rằng để giản tiện Tùng không ăn cơm buổi sáng. Cereal bán sẵn ở các tiệm tạp hóa ăn với sữa tươi và đường vừa tiện vừa bổ. Hôm sau, ngủ dậy Tùng thấy sẵn một bát cereal trên bàn; Thu đang xem truyền hình. Thấy Tùng Thu vội vàng đổ sữa vào bát. Tùng hỏi truyền hình có tin gì không, Thu nói Thu chưa hiểu gì, xem để quen tiếng Anh và chờ Tùng thức dậy.

Một hôm đi làm về Tùng thấy bộ mặt bàn ăn khác hẳn. Một tấm khăn trải bàn  mầu vàng nhạt có mấy đôi bướm tung tăng phủ nơi bàn ăn. Hai góc bàn nơi Tùng và Thu thường ngồi là hai khăn ăn bằng vải có sọc đỏ và trắng cắt vuông góc nhau xếp gọn gàng bên cạnh hai bộ bát chén mới mua mới tinh. Bữa cơm tối hôm đó Tùng và Thu ăn ngon miệng hơn thường ngày.

Ăn xong, Tùng nói: "Em sửa soạn để anh đưa em sang thăm bà chủ nhà."  Mấy hôm nay bận rộn Tùng chưa giới thiệu Thu.

 Thu biến nhanh vào phòng và trở ra ăn mặc như đi dự một dạ tiệc. Việt phục, áo dài mầu hoa cà, quần trắng khoác ngoài một chiếc măng tô nhung mỏng mầu hường óng ánh điểm hoa hồng. Một lớp son thật mỏng tô khéo trên môi. Đôi dép da hai quai mầu tím bắt chéo lên nhau hiện ra dưới đôi ống quần vừa đủ để lộ các móng chân tô mầu đỏ và hai gót chân thon nhỏ ửng hồng của Thu.

Tùng có cảm tưởng Thu chưa thấy tự tin. Thu ăn mặc cẩn thận để che chở nàng. Tùng đưa Thu dạo quanh công viên Clark một vòng, kể cho Thu nghe hoạt động của công viên thời sinh viên hội họp chống chiến tranh, nhưng không kể chuyện đôi sinh viên tự vận, rồi trở về đưa Thu lên thang gác mở cửa vào phòng bà Mushu. Vừa đẩy cửa Tùng thấy Susan đứng lên lộ vẻ vui mừng. Susan liếc nhanh về phiá Thu nói với Tùng:

"Anh có ngồi chơi lâu không? Tôi cần đi mua cho mẹ tôi mấy thứ cần dùng. Mẹ tôi cần người túc trực."

Tùng gật đầu. Susan bước nhanh xuống cầu thang.

Bà Mushu nằm ngay ngắn trên chiếc giường nhỏ mới kê trong phòng khách dưới chiếc cửa sổ trông ra công viên, đầu kê cao trên một chiếc gối mầu trắng điểm hoa cúc nhỏ, từ ngực xuống chân phủ một tấm khăn mỏng mầu hồng nhạt, chỉ để lộ chiếc cổ áo mầu xanh và đôi bàn chân. Bàn chân phải gót nhăn nheo và bàn chân trái phủ kín dưới một lớp băng trắng. Hai bàn tay bà Mushu vắt qua nhau ngay ngắn trên mình. Bà nằm yên như đang tham thiền nhập định. Không nghiêng người bà chỉ chiếc ghế trên sàn nhà cho Tùng ngồi theo kiểu Nhật Bản. Thu rón rén đến ngồi trên chiếc ghế góc nhà.

"Tôi té gãy chân" Bà Mushu lên tiếng trước, mắt nhìn thẳng trần nhà.

"Trời, bà có sao không?"

"Tôi trượt chân trên sàn nhà, giữa đêm khuya khi dậy pha sữa uống."

"Sao bà không gọi cháu?"

"Tôi gọi John và John kêu bác sĩ đến."

Tùng nhớ cách đây hai hôm có nghe tiếng người lên xuống thang gác trong đêm khuya, nhưng Thu vừa tới Tùng còn mệt nên ngủ thiếp quên chưa có dịp hỏi ông John.

"Mấy hôm nay Susan nghỉ việc đến săn sóc tôi. Hắn không nói với anh sao?" Bà Mushu vừa nói vừa cười hài lòng để lộ đôi hàm răng còn nguyên vẹn đã ngả mầu vàng.

Như một cái máy, Tùng thốt lên "Thật là một cô gái ... anh hùng" không tìm được chữ thích hợp Tùng nói đại, ám ảnh bởi chuyện đô đốc Yamamoto của bà Mushu.

Thu cười to trước phản ứng của Tùng. Tiếng cười trong vắt, đôi mắt sáng lộ vẻ ngạc nhiên. Tùng chưa bao giờ nghe Thu cười tươi như vậy, và cười lớn làm bà Mushu chú ý.

"Cô ta là ai vậy?"

"Thưa bà, vợ tôi, mới từ Việt Nam sang."

Bà Mushu ngiêng người nhìn Thu cho rõ. "Cô có biết xem tranh Nhật Bản không?"

"Thưa bà, không." Thu trả lời

"Đứng lên cho tôi ngắm một chút được không?:

Thu đứng lên hai tay cầm hai tà áo măng tô kéo sát vào người. Nãy giờ Thu lúng túng với chiếc áo măng tô. Tùng thấy thương hại Thu trước bà chủ nhà độc đoán. Tùng hy vọng Thu thông cảm với bà Mushu như Tùng. Tùng nhớ những ngày mới đến Hoa Kỳ cái gì cũng ngại. Ngồi trên xe buýt chạy trên xa lộ nhìn ngươiụ khác vừa lái xe chạy nhanh như điên vừa bình thản nhấp cà phê Tùng cảm phục vô cùng nghĩ rằng mình chẳng bao giờ làm được. Lần đầu vào siêu thị muốn lấy gì thì lấy Tùng lo lo không biết người chung quanh có bảo mình tham không. Cũng như Tùng trước đây Thu đang đứng trước một khung cảnh xa lạ, một nơi không dính líu gì đến thời thơ ấu của Thu. Thu có mặt ở đây chỉ vì Tùng là chồng nàng. Tùng biết hai người là gắn bó của nhau, và cần nhau. Tùng muốn giải thích cho bà Mushu biết Thu còn xa lạ với đời sống ở Hoa Kỳ, còn xa lạ đối với Tùng, trong khi bà im lặng quan sát Thu. Tùng không biết bà Mushu đã thấy một phụ nữ nào mặc Việt phục chưa, bà sẽ nghĩ gì về tà áo dài ẩn sau chiếc áo măng tô may theo lối Tây phương, và nghĩ gì đến móng chân đỏ chói của Thu ẩn hiện dưới đôi ống quần may đúng mốt. Bỗng bà Mushu nói bằng một âm điệu hài lòng thích thú quen thuộc với Tùng.

"Cô ta đẹp quá. Đẹp như một bức tranh Nhật Bản."

Tùng cười vừa đủ Thu nghe. Và lần đầu tiên hai người trìu mến nhìn nhau cười thoải mái.

***

Sau này mỗi khi nhớ lại Tùng nghĩ đó là thời điểm khoảng cách tâm lý vô hình ngăn cách hai người được thu hẹp lại. Tùng và Thu chưa thật sự yêu nhau đúng nghĩa của hai tình nhân trở thành vợ chồng, nhưng những tháng sau đó là một thời kỳ trăng mật êm dịu. Tùng và Thu đi thăm thú những thắng cảnh trong thành phố San Francisco với nhau, cùng nhau đứng nơi đầu cầu Golden Gate nhìn cột trụ cầu cao ngất chìm trong mây, về khuya cùng nhau ra phố tàu ăn cháo, cùng đi tàu điện chạy ngang dọc thành phố không cần biết đi đâu. Cuối tuần chán xem phong cảnh, Tùng và Thu đi thăm những người bạn mới và những người bạn cũ. Có những buổi chiều hai người không ngại gió biển lạnh đi thơ thẩn trên đường Providence dọc bờ biển bắc San Francisco khuya mới trở về sau khi ăn phở Tàu Bay nơi tiệm ông Jim trên đường 16. Thu đòi Tùng mua một chiếc ảnh nhỏ để nàng ghi lại những phút thân mật bên nhau gởi về cho mẹ. Đêm đến hai người hôn nhau, lúc đầu lạ lạ tìm thấy môi nhau, rồi dần quen hai người ngả vào tay nhau trong tận cùng của sự êm ái của xác thịt. Đôi khi tỉnh giấc giữa đêm khuya Tùng ôm chặc Thu vào lòng, thủ thỉ kể cho Thu nghe cuộc vượt biên của Tùng. Những ngày thuyền chết máy trôi dạt trên biển Đông, nỗi vui mừng khi thấy đất liền bỏ thuyền bơi bằng phao nổi một ngày mới tới để nhận ra chỉ là đất Hoàng Sa của Trung quốc. Những ngày chờ đợi tại Hải Nam, Hồng Kông, những ngày đầu đi kiếm việc tại Hoa Kỳ, thuê nhà, và câu chuyện ma của công viên Clark, chuyện bà Mushu ép Tùng thốt ra lời khen đô đôc Yamamoto là một vị anh hùng.

Tùng đổi việc, thuê nhà khác trong vùng Santa Clara. Hôm đọc báo San Jose Mercury được tin bà Mushu qua đời Tùng khóc sướt mướt. Hai năm nay sống trong hạnh phúc Tùng quên bẵng bà Mushu như thể thời gian ở cư xá Pinewood không còn trong ký ức Tùng. Tin bà chết làm Tùng mất thăng bằng. Bà Mushu là người thân đầu tiên trên bước đường bèo giạt của Tùng. Có lúc Thu bắt gặp Tùng đưa tay phát họa lên không trung miệng lẩm nhẩm tên đô đốc Yamamoto. Tùng nghĩ đến cuộc đời của bà Mushu. Sinh tại Mỹ gần một thế kỷ bà vẫn chưa hội nhập, vẫn không quên người anh hùng của đất nước cha ông, thành công trong cuộc sống vẫn sống một cách cô đơn; một người bảo thủ khó tính nhưng đầy nhân tính. Tùng tự hỏi không biết bà có hạnh phúc trong cuộc đời bà vừa vĩnh viễn giả từ  không.

Tùng giúp Thu vừa đi làm vừa học. Đậu bachelor xong Thu kiếm được việc tốt. Tùng và Thu tậu một ngôi nhà ở vùng Monterey, nằm đầu con đường trồng toàn cây sồi dài 17 dặm chạy quanh eo biển Monterey. Nhà có bốn phòng đủ cho hai con, một phòng ngủ và một phòng dành cho khách. Nhà có vườn Thu trồng đủ rau loại rau thơm, ớt và cà chua. Hai người đã có quốc tịch Hoa Kỳ, đã về thăm Việt Nam hai lần. Lần đầu về thăm Hà Tiên và bạn bè còn ở lại, lần sau về đưa đám tang mẹ Thu. Tùng và Thu không định về sống ở Việt Nam sau khi nghỉ hưu. Tiền hưu bổng liên bang của Tùng và Thu đủ sống. Thu không còn mặc Việt phục khi ra đường. Trang phục tây phuơng làm Thu nhanh nhẹn tự tin. Thu không còn khóc vì nhớ mẹ, nhớ nhà, nhưng Thu khóc vì nhớ con. Con gái lớn lấy chồng ở Canada, con trai học dược tận New York cách 5 giờ bay, mỗi năm về thăm nhà một lần. Đó là dịp duy nhất để Tùng và Thu nói tiếng Việt với con. Con Tùng nói tiếng Việt khó khăn. Tùng biết sau thế hệ mình con Tùng sẽ không dùng tiếng Việt nữa. Một lần con về thăm Tùng đưa con lên San Jose đi chợ Việt. Tùng lái xe vòng qua cư xá Pinewood chỉ cho con nơi Tùng và Thu đã sống những ngày đầu tiên, và dừng lại thắp nén hương lên mộ bà Mushu bên bìa công viên Clark. Khi Tùng đốt nhang, Thu chợt hỏi: "Anh còn buồn há?"  như thể Thu chưa hề là một kẻ xa lạ nơi đây. Con Tùng không thắc mắc về sự khó tính của bà Mushu, chỉ thắc mắc sao Tùng thuê nhà rẻ như vậy. Qua ánh mắt con, Tùng thấy sự tự tin như sự tự tin của Tùng khi quyết định mạo hiểm rời bỏ quê hương. Trong vài năm nữa con Tùng ra trường, và sẽ tự đi một mình. Tùng yên tâm biết rằng con còn có một người cha can đảm, một người mẹ nhân hậu. Khi con Tùng thất vọng trên đường đời Tùng sẽ bảo cho con biết rằng nếu Tùng không được chuẩn bị vào đời như con mà còn sống sót  qua bao nhiêu phong ba bão táp như vậy thì không có trở ngại nào con Tùng không thể vượt qua. Đô đốc Yamamoto trở thành anh hùng vĩnh viễn của nước Nhật qua một trận thư hùng, còn Tùng đã sống hơn 30 năm trên đất nước xa lạ này. Tùng biết những gì Tùng đã làm được quá tầm thường. Nhiều người làm được như Tùng. Nhưng khi nhớ đến đoạn đường đã đi qua, nhớ những bữa cơm với Thu, với bạn bè, nhớ đến những nơi đã sống, đã ngủ qua đêm Tùng không thể không thấy cuộc đời là một cái gì thật tuyệt vời.

Trần Văn Sơn

                       


Trần Văn Sơn

http://www.vnet.org/tbn