ĐÔI MẮT
Năm 1963 Văn cùng
hai con về Huế thăm ba mẹ và ông bà nội. Một căn nhà nhỏ xinh
xắn mới dựng bên cạnh nhà Văn, trong cùng khu vườn. Ngọc
Vân cháu gọi Văn bằng cậu cho biết đó là nhà mới cất của Trang Anh, bạn cùng
lớp, sống với bà Tâm, mẹ Trang Anh. Hai mẹ con bỏ quê lên tỉnh để tránh
chiến tranh. Không ai biết cha của Trang Anh còn sống hay
chết. Có người đồn ông đi bưng. Cũng có tin ông đã qua đời.
Ngọc Vân láu lĩnh. “Cậu
về Huế chơi có một mình để cháu giới thiệu Trang Anh cho cậu. Trang Anh
đẹp lắm”
Bà Tâm trẻ hơn mẹ
Văn chừng mươi tuổi, người tầm thước, nét mặt thoáng buồn. Khi Ngọc Vân
giới thiệu Văn bà đáp lễ cầm chừng rồi lảng sang việc khác để Trang Anh nói
chuyện với cậu cháu Văn.
Ý chừng Ngọc Vân báo trước có khách
nên Trang Anh có săn sóc chút ít cách ăn mặc. Đồ bộ xếp trắng tinh làm nổi bật thêm làn da trắng của một cô gái
thuộc giới trung lưu. Nét mặt hiền, cười nói dè dặt
phảng phất nét đượm buồn của mẹ. Bà Tâm và Trang Anh
hình như từng chịu đựng nghịch cảnh của chiến tranh, cả hai khuôn mặt như đồng
tình kềm chế và che dấu những gì thuộc về ông Tâm làm nản lòng những ai muốn tò
mò hỏi chuyện. Đôi mắt bà Tâm buồn như đã buồn nhiều.
Bà chấp nhận và xem cuộc sống còn lại chỉ vì Trang Anh, con
gái độc nhất của bà. Trang Anh buồn sâu sắc hơn mẹ.
Đôi mắt Trang Anh như chứa nổi buồn quá khứ mang lẫn tín hiệu
của tương lai bất trắc. Văn vẫn thích những đôi mắt thầm kín u buồn như
vậy nên cảm thấy gần gũi Trang Anh như một người bạn
từ lâu.
Ngọc Vân tinh nghịch: “Cậu tao đi
Hải quân mới từ Nha Trang về thăm nhà, tao giới thiệu cho mi đó.”
Trang Anh cười nhẹ
nhàng bảo, như riêng cho Ngọc Vân nghe, “giới thiệu ông cậu của mi cho tao thì
có ích gì.” Cả ba cùng cười.
Trang Anh hỏi Văn
chuyện hải hồ. Văn kể những chuyến đi thực tập hồi còn ở học viện hải
quân Pháp qua các nước Bắc Âu, mấy chuyến du hành trên biển Nam Hải, đi Phi
Luật Tân sửa tàu tại căn cứ hải quân Mỹ
ở Vịnh Subic, đến Côn Sơn tiếp tế cho tù, ra đảo Hoàng Sa mang gạo cho lính. Chuyện kể không hay nhưng Trang Anh chú ý nghe không bỏ sót chi
tiết nào.
“Cậu Văn đi nhiều,
thấy nhiều thích quá! Ước gì lớn lên Trang Anh cũng
được đi nhiều như cậu.” Trang Anh nói, rồi thêm: “Chắc cậu nhiều bồ
lắm?”
Văn cười. Trí nhớ Văn bỗng lướt qua rất
Như đoán được ý nghĩ của Văn, Trang
Anh tinh nghịch: “Chắc cậu Văn đang tính nhẩm xem có bao nhiêu bồ? Càng nhiều Trang Anh càng mừng cho cậu.”
Văn cười lảng sang chuyện khác. “Xong trung học Trang Anh định học gì?” Văn
hỏi.
“Định gì được cậu, xong trung học cháu đã lớn, lo kiếm việc làm
giúp mẹ thôi.” Trang Anh kín đáo trả lời, giọng chịu
đựng.
Ngọc Vân xen vào,
“Cậu đừng có tin! Trang Anh khiêm nhượng đó thôi.
Hắn có nhiều mộng lắm.” Trang Anh ngắt lời, “Mày chỉ nói nhảm,
nghèo như tao thì phỏng có mộng gì?”
Văn liếc nhìn
trong nhà. Nhà bài trí đơn sơ. Ngoài bốn chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ
trên có một lọ hoa vườn vừa mới cắm làm nơi tiếp khách trước bàn thờ căn giữa,
căn bên phải kê một bộ phản gõ bên cạnh một bàn học bằng gỗ sơn dầu trên để vài
cuốn vở, vài cuốn sách giáo khoa, một tấm hình mầu của Trang Anh và bà Tâm chụp
chung. Bên trái là phòng ngủ của bà Tâm và Trang Anh trông ra
đường, cửa sổ che một nửa bằng một tấm màn mầu xanh nhạt. Cửa phòng hé mở để lộ một phần của một chiếc giường gỗ phủ một tấm
chăn bông trắng. Phía sau là nhà bếp. Tất cả nằm trong tầm mắt của Văn.
Ba mẹ Văn trước kia
cũng nghèo như bà Tâm. Những năm đầu Trung học mùa đông Huế lạnh như cắt Văn
thường ngủ với chiếc áo ngắn tay, đắp bằng chiếu lát, cuốc bộ bằng guốc gỗ mỗi
ngày từ nhà đến trường đi về tám cây số, che mưa bằng nón lá và tơi cá đan bằng
lá kè già cứng mầu xanh xám, mùa nắng đi đầu trần. Đến năm thi trung học ba Văn
mới mua cho Văn một chiếc xe đạp cũ. Đó là năm tuyệt vời của đời Văn, đôi chân bỗng như có cánh.
Cảnh nhà đạm bạc của Trang Anh, đôi
mắt u buồn gần như một bí ẩn làm cho khoảng cách giữa Văn và Trang Anh thu ngắn lại. Văn quên hẵn Trang Anh là bạn của Ngọc Vân,
tìm thấy nơi Trang Anh một thiếu nữ cùng cảnh ngộ với thời thơ ấu của mình.
Ở Huế chơi một
tuần Văn trở về Nha Trang. Trang Anh hỏi, “Khi nào cậu
Văn lại về thăm hai bác.” Văn đáp, “Huế và Nha Trang
đâu xa cách gì. Hơn nữa năm tới công việc cho cậu
nhiều dịp về Huế.”
*
* *
Mùa Xuân hai năm
sau Văn trở lại Huế. Thời gian hai năm qua Nha Trang nhiều thay đổi,
không quân Mỹ mở rộng phi trường và dựng trại bằng lều vải đóng quân bảo vệ căn
cứ. Giá sinh hoạt trở nên đắt đỏ. Ngoài
lương sĩ quan Văn phải dạy học thêm ở các trường công và tư mới đủ chi phí gia
đình. Việc quân trường và sinh nhai chiếm hết thì giờ
nên Văn quên bẵng Trang Anh. Văn cũng không tiện hỏi
cô cháu tinh nghịch.
Nhìn ngôi nhà bên
cạnh đã đổi chủ, Văn hỏi Ngọc Vân.
Ngọc Vân cho biết Trang Anh đã đính hôn với giáo sư Lê Văn Hạnh đang dạy
tại đại học luật khoa Huế và do sắp xếp của giáo sư Hạnh hai mẹ con bà Tâm dọn
về một ngôi nhà nhỏ ba từng của một người bà con xa của giáo sư nằm gần thành phố
để tiện thăm viếng.
Văn thắc mắc hỏi Ngọc Vân: “Trang
Anh học chưa xong trung học sao đã vội lấy chồng? Mà lại là
một giáo sư đại học?”
“Thì cháu đã nói
với cậu Trang Anh có nhiều mộng lớn mà! Ở trường ai
cũng ngạc nhiên về cuộc hôn nhân này.” Ngọc Vân đáp.
Sáng hôm sau Văn
đến thăm Trang Anh. Nắng đã lên cao nhưng khí trời còn
mát dịu, mùa Xuân như đang còn luyến tiếc gì chưa dứt. Văn rũ Ngọc Vân đi, Ngọc Vân bảo, “Cậu đi một mình đi, Trang Anh
muốn nghe những câu chuyện của cậu hơn.”
Ngôi nhà mới của
Trang Anh nằm bên bờ sông Hương gần chân cầu xe lửa
đối diện với lầu nước mới xây bên kia cồn Giả viên cung cấp nước cho thành phố
Huế. Ngôi nhà đã cũ, tường gạch, mái ngói nhiều năm không sơn
phết trông khá tiều tụy.
Vừa bấm chuông lần
thứ hai Trang Anh xuất hiện trong khung cửa vừa hé mở, ánh mặt trời chiếu chếch
xuyên qua gương mặt dịu buồn một phần còn nấp sau cánh cửa. Trang Anh cao hẳn lên, khuôn mặt đầy đặn, má ửng hồng, đôi môi mang
đầy nữ tính khác hẵn với Trang Anh hai năm trước.
Nhận ra Văn, Trang Anh reo lên: “A! cậu Văn!”
Văn đáp: “Tôi mới về ngày hôm qua. Trang Anh
trông lạ hoắc, lớn và đẹp hẳn ra! Sắp lấy chồng giáo sư đại
học có khác.” Nói xong Văn mới nhận ra rằng lần đầu tiên Văn xưng tôi
với Trang Anh như một người bạn cùng lứa không còn là cô bé bạn của cháu mình
nữa.
Trang Anh mắt chớp nhanh mĩm cười không trả lời,
mời Văn lên phòng khách trên gác. Vừa pha nước Trang
Anh cho biết mẹ vừa đi chợ. Phòng khách chưng dọn sơ
sài, bốn chiếc ghế da chung quanh một chiếc bàn kính để nước, dưới mặt bàn là
một số báo cũ. Sát vách
một tủ chè bên trong đủ thứ li tách. Trên tường
nước sơn đã cũ treo hờ hững một bức tranh đen trắng vẽ cảnh vua Quang Trung đại
phá quân Thanh lấp lánh dưới ánh nắng lọt qua khung cửa sổ. Gió bên ngoài
rì rào thổi qua các nhành phượng, những cánh lá nhỏ li ti đang chuyển từ lục
sang xanh.
Trang Anh bắt đầu
câu chuyện. “Ngọc Vân nói với cậu việc em - lần đầu
tiên Trang Anh xưng em với Văn - đính hôn với thầy Hạnh chứ gì?” Không
chờ Văn trả lời, Trang Anh tiếp: “Kể cũng lạ, thầy Hạnh gặp em chỉ một lần ở
nhà một con bạn. Tình cảm chưa có thì giờ xây dựng thầy đã
ngỏ ý xin cưới em. Em chẳng biết trả lời sao thì thầy
đích thân đưa bố mẹ đến nhà gặp mẹ em để xin em. Mẹ em
khuyên em nhận lời thì em nhận lời cho mẹ vui lòng. Biết
thầy Hạnh tốt và thương em nhưng em thấy cấn cái thế nào ấy. Thầy là giáo sư đại học, hơn em 15 tuổi. Em
là một học sinh nhà nghèo chưa xong trung học. Thầy
nói thầy yêu em tha thiết mà sao không làm cho em cảm thấy ái tình
Ngạc nhiên trước tâm sự của Trang
Anh, không giống như nhận xét “tếu” của Ngọc Vân, Văn lúng túng tìm lời an ủi,
mắt liếc nhìn bức tranh treo trên tường để tránh đôi mắt rướm lệ dò hỏi của Trang
Anh: “Tình yêu như tiếng sét là chuyện tiểu thuyết, thực tế tình yêu nào cũng
cần thời gian. Đã đính hôn rồi tình yêu sẽ tới giữa Trang Anh
và thầy Hạnh.”
Thấy Văn nhìn bức tranh Trang Anh kể
lể: “Thầy Hạnh cho em bức tranh và yêu cầu treo ở phòng khách cho kỳ được. Thầy thích bức tranh và nói với em không gì đẹp hơn hình ảnh Quang
Trung đại phá quân Thanh.” Câu chuyện giữa Văn và
Trang Anh chuyển qua những chuyện không đâu vào đâu nhưng làm cho Trang Anh vui
dần giữa tiếng cười tiếng nói không dứt. Thấy Văn nhìn quanh, Trang Anh
lục tủ đồ ăn lôi ra mấy chén chè mời Văn để cầm chân
khách, vừa thuyết phục “cậu nán ngồi chơi, mẹ em cũng sắp về.”
Xế trưa bà Tâm vẫn
chưa về, Văn tạm biệt Trang Anh. Văn có hẹn cơm trưa với một người bạn học ở tiệm Lạc Thành. Trang Anh đưa Văn xuống thang lầu. Thang lầu bằng gỗ chừng
mười lăm bậc nối liền phòng khách ở tầng hai với tầng trệt để trống. Trang Anh
nói thầy Hạnh khuyên nên ở tầng hai và tầng ba, bỏ trống tầng trệt cho an toàn. Ngoài cửa vào tầng trệt còn một
cánh cửa có khóa. Thang lầu ánh sáng lờ mờ. Văn đi trước, Trang Anh nhè
nhẹ theo sau. Văn bước chậm như muốn
kéo dài thời gian, nghe rõ tiếng bước chân của Trang Anh.
Bỗng Văn nghe Trang Anh gọi khẽ:
“Anh Văn!” Ngoảnh mặt nhìn ra sau, Văn thấy Trang Anh một tay
đặt trên tay vịn cầu thang, một tay đè lên ngực.
“Trang Anh có sao
không?” Văn hỏi, tưởng Trang Anh bị cảm.
“Không, em không
làm sao cả.” Trang Anh ấp úng.
Nhìn nét mặt đè nén xúc động của
Trang Anh, đôi môi chín mọng, tóc lòa xòa trên má, chiếc áo ngắn trắng tinh
phập phồng dưới bàn tay trên lồng ngực Văn có cảm tưởng nếu Văn bước lên một
bậc Trang Anh sẽ rơi gọn vào tay đôi tay của Văn. Đầu óc quay cuồng, tim đập
mạnh, Văn đứng yên như tượng đá nhìn Trang Anh.
Có tiếng gõ cửa
của bà Tâm lôi Văn và Trang Anh về thực tại. Văn chỉ kịp nói thật nhỏ đủ
cho Trang Anh nghe: “Cám ơn em.”, rồi quay lưng xuống
lầu.
*
* *
Cuối tháng Giêng dương lịch 1968 Văn
cùng hai con đáp máy bay dân sự về Huế ăn Tết với ông bà nội. Mấy tháng
trước trên đường về nước sau thời gian
thực tập huấn luyện tại Hoa Kỳ dừng chân tại cảng San Diego cực nam tiểu bang California
Văn gặp Trung úy John Hoffman thuộc hải quân Hoa Kỳ mới từ căn cứ Thuận An ở
Huế trở về. Trong câu chuyện chếnh choáng hơi men Hoffman nói
với Văn Tết này đi đâu thì đi đừng về Huế. Văn không
để tâm cho là lời nói bốc đồng của một sĩ quan trẻ.
Phi cảng Phú Bài
rộn rịp đón người tứ xứ về cố đô ăn tết. Trên chuyến xe
ca của hãng Air Việt
Hai con trai của Văn ít xa mẹ nhìn
khung cảnh hai bên đường thay đổi, không ngớt hỏi Văn:
“Hoa gì vậy ba?”
“Hoa mai.”
“Núi gì nhỏ tí xíu
trước mắt vậy ba?”
“Núi Ngự Bình.”
Đến An Cựu, Văn nói với hai con:
“Qua khỏi khu chợ này là vào thành phố Huế, các con sẽ thấy cầu Trường Tiền,
sông Hương Giang và chợ Đông Ba, trước khi mình lấy xe đò về nhà ông bà nội.”
Ba năm nay Văn chưa về Huế. Nhìn sáu
nhịp cầu Trường Tiền sừng sững vắt qua sông Hương nối liền khu hành chánh bên
hữu ngạn với khu phố chính của người Việt có chợ Đông Ba, Thành Nội bên tả ngạn
không khỏi làm Văn bồi hồi. Xuống xe ca, Văn tay xách
hành lý tay dẫn đứa con nhỏ, đứa con lớn giúp Văn xách một túi hành lý vừa sức
nhanh nhẹn theo sau, ra ngay bến xe đò lấy xe về nhà. Văn nôn
nao gặp bố mẹ, thăm ông anh ruột, thăm Ngọc Vân và nóng lòng về đến nhà để hỏi
thăm về Trang Anh. Trang Anh vẫn như một ẩn số đối với Văn: Tông tích
kín đáo của ông Tâm? Hôn nhân với giáo sư Hạnh? Tình cảm dành cho Văn?
Vừa bước vào sân, Ngọc Vân từ trong
nhà chạy ra ôm hôn đứa con nhỏ của Văn, ríu rít: “Bà ngoại ơi! cậu Văn về!”
Ngọc Vân ở với ông bà ngoại từ hồi
còn nhỏ trong một ngôi nhà lợp ngói ba căn nằm kẹp giữa tỉnh lộ Huyền Trân Công
Chúa và sông Hương cách thành phố chừng bốn cây số. Ba Văn xây ngôi nhà trên một khu vườn khá
rộng nhiều cây ăn trái của nhạc gia. Nơi đây năm anh chị em
Văn đã chào đời. Văn là con út. Cha Ngọc Vân bỏ mình trong
một cuộc tấn công đồn Tây trong thời gian đánh Pháp giành độc lập. Mẹ
Ngọc Vân, chị của Văn tái giá.
Đang xếp hành lý, Ngọc Vân đến gần
Văn mau mắn cho biết Trang Anh đã về nhà chồng và sống cùng thầy Hạnh trong khu
cư xá dành cho giáo sư đại học. Bà Tâm ở với vợ chồng Trang
Anh.
Ngọc Vân hỏi: “Khi nào cậu định đến
thăm Trang Anh ?” Suy nghĩ một giây, Văn đáp: “Chắc
không tiện.”
Chiều 29 Tết Văn dẫn hai con đi chợ
Tết. Tết Mậu Thân 1968 Huế tưng bừng chuẩn bị đón
Xuân. Chợ Đông Ba đầy hoa mai vàng, các sạp hàng Tết bày bán
đủ mặt hàng, mức bánh, pháo Tết. Đường sá đông nghẹt. Hình
như năm nay người đi sắm Tết đông hơn thường năm. Đến hàng hoa mai của
cô Nguyệt, Văn định chọn một nhành mai thật đẹp để ông nội hai cháu cúng giao
thừa và chơi mấy ngày Tết. Hàng mai của cô Nguyệt nổi tiếng chợ Đông Ba vì hoa
tươi, nhiều nụ búp, cành hoa cắt cẩn thận, dáng thẳng cắm vào bình rất đẹp mắt
nên năm nào hàng cô cũng chật ních người. Định chen
vào chọn hoa, Văn chợt thấy Trang Anh tay cầm một cành mai vừa mua xong đang
rời tiệm hoa với một thiếu phụ khác.
Văn mừng rỡ reo lên: “Trang Anh!”
Nhận ra Văn, Trang Anh mặt biến sắc
đột ngột hỏi: “Sao anh lại về Huế ăn Tết?”
Không hiểu câu hỏi của Trang Anh,
Văn hỏi lại, ngạc nhiên : “Tết mà! Tại
sao?”
Trang Anh liếc
nhìn người thiếu phụ bên cạnh, đôi mắt lo lắng nhìn Văn không trả lời.
Và như sợ hải điều gì Trang Anh bước
Mua hoa xong Văn lấy xe đò về nhà, câu hỏi kỳ lạ và đôi mắt như muốn nói điều gì
của Trang Anh ám ảnh Văn không dứt.
Hai ngày sau cộng quân tấn công Huế,
Văn gởi hai con lại cho ông bà nội chạy thất điên bát đảo mười ngày sau mới
thoát chết về đến Nha Trang. Tin cho biết trong lúc cộng quân
chiếm Huế giáo sư Lê Văn Hạnh chồng của Trang Anh hợp tác với chính quyền mới.
Văn chợt hiểu ý nghĩa câu hỏi thảng thốt và đôi mắt như muốn nhắn
nhủ của Trang Anh. Trang Anh biết sẽ có biến cố.
Vì an toàn của chồng hoặc vì người thiếu phụ đi bên
cạnh Trang Anh không thể báo cho Văn, nhưng đôi mắt lo lắng của Trang Anh nơi
hàng hoa mai không giấu được tình cảm Trang Anh dành cho Văn.
*
* *
Bảy năm sau, chiến
cuộc tàn, hòa bình trở lại. Từ miền Bắc trở về, mấy năm sau giáo sư Hạnh
thất vọng với chế độ mới bỏ nước sang định cư ở Pháp. Văn lúc
này ra hải ngoại đã nhiều năm.
Cuối năm 1990 Văn
đi tham dự một buổi hội thảo về dân chủ đa nguyên ở
Văn hồi hộp hỏi
Kiên, “giáo sư Hạnh nào?”
Kiên cười, “giáo sư
Hạnh từng làm mưa làm gió tại Huế trong dịp Mậu Thân chứ còn Hạnh nào nữa.” Kiên vừa nói vừa
chỉ một người đàn ông ăn mặc chừng mực, hơi gầy, trạc 60 tuổi, ngồi cách Văn
mấy bàn đang nói chuyện với mấy người bạn.
Nén xúc động, Văn
nghĩ thầm, Trang Anh đang ở
Nghĩ đến đó Văn
cảm thấy vui. Chờ phần ăn uống xong sắp đến
phần văn nghệ, Văn bước đến bàn giáo sư Hạnh, kéo một chiếc ghế trống ngồi bên
cạnh. Trước khi giáo sư Hạnh ngạc nhiên về người khách lạ Văn lễ phép: “Thưa
anh Hạnh, tôi là Văn, cậu của Ngọc Vân bạn của chị Hạnh, tôi xin được phép hỏi
thăm sức khỏe của anh và của chị Hạnh.”
Giáo sư Hạnh hỏi: “Anh Văn muốn hỏi
thăm bà vợ hiện
nay hay bà vợ trước của tôi.”
Tim Văn thắt lại, lo lắng “tôi muốn
hỏi thăm chị Trang Anh.”
Giáo sư Hạnh trầm giọng: “Trang Anh
đã qua đời. Năm 1968 khi tôi bỏ Huế ra Bắc, Trang Anh và mẹ ở
lại. Sau đó Trang Anh chết vì không chịu đựng nổi sóng
gió của cuộc đời. Mẹ Trang Anh thương con qua đời hai năm sau. Trang Anh và mẹ được thân nhân chôn cất tử tế bên bờ hồ Than Thở ở
Đà Lạt.”
Đánh bạo Văn hỏi: “Còn các cháu của
anh và chị Trang Anh?” Giáo sư Hạnh đáp gọn: “Chúng tôi chưa có con với nhau.”
Văn chớp
Văn thấy đôi mắt buồn của Trang Anh
như vẫn còn lo lắng nhìn Văn từ lòng đất lạnh.
Trần Văn Sơn
Tháng 8 - 1998
Trần Văn Sơn
|
http://www.vnet.org/tbn |