HAI NGƯỜI BẠN
Trời
Trang đầu
đầy tin kỷ niệm một năm cái chết đột ngột của
công
chúa Diana. Văn mĩm cười cho cái thế giới kỳ cục mình
đang sống. Nhớ tháng này năm trước một bà công chúa 36 tuổi của một nước
59 triệu dân, đã li dị hoàng tử kế vị ngôi vua nước Anh, đi chơi với một triệu
phú gốc Ai Cập, không muốn báo chí theo dõi chụp hình, tài xế lái vội đâm xe
vào cột cầu tại một khu sang trọng ở Paris tử nạn mà thế giới lên cơn sốt như
bố mẹ qua đời. Mẹ Teresa thiếu may mắn, chết ở thành phố nghèo
Định lật trang báo chọn tin gì đọc cho thoải mái hơn thì điện thoại
reo. Nhấc điện thoại giọng Ninh từ
“Văn có nhận được thư
Huấn không?”Giọng Ninh có vẻ bực. Văn
và Huấn có thói quen gọi tên nhau không xưng mày tao. Nhắc đến Huấn, Văn
nhớ ông bạn trung học giỏi sinh ngữ, viết văn ngọt như mía lùi, sắc như dao,
phơn phớt vài chữ có thể làm người ta khó chịu dài dài. Ai bực mình Huấn sẵn
sàng thanh minh sòng phẳng không biết nợ trả được không. Huấn
du học từ thập niên 60 rồi ở luôn ở Đức ngoài mấy chuyến về quê thăm mặt cưới
vợ. Huấn ít viết nhưng viết cho báo hay thư cho
bạn cũng như nhau. Ý tưởng tuồn tuột tuôn ra như nước trong
vòi chảy ra đọc vui cũng vui, nhức đầu cũng lắm nhức đầu. Thời gian sau
này thư cho bạn của Huấn đượm mầu Bát Nhã. Cái sắc sắc không không trừu tượng của thế giới hữu hình từng là đề
tài của cái sống cái chết, cái có cái không dưới ngòi bút của Huấn trở nên thêm
huyền ảo.
“Có,” Văn đáp, “kèm
một bài viết của Huấn về vụ Huấn đón một vị sư từ trong nước ra thăm Phật tử
nước ngoài. Có gì lạ không Ninh?” Có tiếng Ninh văng vẳng trong máy. Văn ngập ngừng: “Mình
đồng ý, nhưng cái giỏi của Huấn là lặp đi lặp lại mà ý không trùng nhau, người
đọc vẫn thấy có cái mới.” Chờ nghe hết
câu của Ninh, Văn nhỏ nhẹ, “Thôi cứ tạm đồng ý lần này tụi mình bất đồng ý đi,”
rồi lảng sang chuyện khác: Trình một người bạn của cả hai đang lâm trọng bệnh;
chiều nay có hẹn đi ăn sinh nhật con trai Cân; cuốn sách “Monkey Bridge” của cô
Cao Lan vừa xuất bản đang được giới thưởng ngoạn văn học Việt hải ngoại chú ý.
Nói
chuyện với Ninh về lối diễn giải của Huấn về cái có cái không, cái anh cái tôi,
Văn nhớ hồi còn nhỏ nghe mẹ tụng kinh Bát Nhã hằng đêm “có có không không” Văn
vẫn không tin cái gì trước mắt là không thật. Ba đi làm, Mẹ đi buôn, chị đi
chợ, và riêng mình mỗi buổi sáng đến trường thung thăng gặp thầy gặp bạn. Lớp
học còn đó, mấy giòng chữ của thầy viết trên bản đen vào giờ cuối vẫn còn kia. Chưa có ý thức về phạm trù tôn giáo Văn nghĩ ông Phật
cũng như giáo chủ các tôn giáo khác chỉ bày chuyện để thu
phục tín đồ mở rộng đế quốc riêng của mình. Nhưng tuổi về
chiều Văn cảm nhận cái vô thường của cuộc sống. Không
biết thời tiết vùng đông bắc nước Mỹ bốn mùa thay đổi
Có tiếng chuông cửa reo. Đã hơn 2 giờ
chiều. Giờ này anh George, người đưa thư quen
thuộc đến phát thư. George có thói quen bấm chuông để Văn ra nhận thư. Lẫn lộn trong mấy giấy thông báo tiền điện, thẻ tín
dụng, điện thoại là mấy cái thư. Có thư
Nhàn. Nhàn rất ít viết thư, chắc phải có gì quan
trọng. Và Văn đoán không sai.
Nhàn với Văn là hai người bạn thân. Rời
khỏi ghế nhà trường vào quân ngủ, chiến tranh, sụp đổ, tị nạn Văn và Nhàn vẫn
giữ được liên lạc với nhau. Nhưng ổn định ở quê người
phương tiện liên lạc không thiếu hai bạn lại thấy xa cách. Một xung lực nào đó như kéo Nhàn xa Văn. Văn chẳng biết tại sao,
như là chuyện thiên định. Nếu ở tuổi thiếu thời Văn sẽ
tìm đến Nhàn để hỏi cho ra lẽ, nhưng bây giờ Văn chỉ cười.
Trong những bạn trung học không phải ai cũng vô tư như Văn. Thinh
là một. Bài thơ phổ nhạc “Mầu Tím Hoa Sim” của Hữu
Loan đã cám dỗ Thinh khi tuổi chưa đến độ 20, tạo ấn tượng mất mát, vô thường,
buồn một cách sâu sắc. Hình ảnh người lính trẻ cầm súng hành quân băng
qua những cánh đồi đầy hoa sim mầu tím để nhớ đến người vợ bé bỏng yêu mầu tím
chết trong một trận càn của giặc quá đẹp đối với Thinh. Hồi
đó Văn và Thinh cùng học ở Pháp, Thinh ở học viện miền
Cùng lớp với Thinh còn có Mai, Đống và Hùng. Mai hiền như
con gái, đối với Văn có một tình cảm đậm đà. Hồi còn ở
Hùng là người vô tư, học thành tài, lấy vợ, đẻ con, đi tù, vuợt
biên đều là chuyện nhẹ nhàng như chân của Hùng trên sàn nhảy. Hùng có một lối nhảy êm ả. Đối tượng nào biết nhảy hay không đều có
thể nhảy giỏi với Hùng. Hùng có một lối sống điềm đạm, yêu mến bạn bè và
được bạn bè yêu mến.
Lớp 48-55 của Văn có nhiều nhà văn và
nhà thơ. Văn ngoài Ninh có Linh, Ngân, Định, thơ có Lệnh, có Thìn và Ly. Ninh
viết văn dưới nhiều dạng, văn óng ả, diễm lệ, có chủ điểm và nói như Huấn “hắn
biết chọn chiến trường và vũ khí” nên
“hắn nheo mắt giương cung bắn đâu là trúng đó”. Ngân phức tạp
hơn, khúc mắt hơn và chuyện Ngân viết không rời được nghịch cảnh của miền
Lệnh cũng thích
“Cuốn Theo Chiều Gió.” Thơ của Lệnh đượm nét u hoài, nhớ nhung những gì
đã mất trong đó có mất mát riêng của Lệnh. Gặp lại bạn bè ở quê người sau nhiều
năm xa cách, Lệnh mê mẩn với tiếng hát rưng rưng từ một trời Paris cách trở,
Lệnh tươi vui với điệu hát từ thung lũng Hoa Vàng nhưng Lệnh không khỏi nghe
trong đó nỗi buồn quê mẹ của Phương Loan và nỗi nhọc nhằn thành bại của Thiên,
những người bạn của Lệnh và tất cả đều khởi đi từ miền Trung thương khó, từ
chiến tranh và xuyên suốt chiến tranh.
Linh
viết văn không giống các bạn, từ ý xuống chữ viết là một khoảng cách rất ngắn,
văn như trãi tấm lòng trên giấy. Linh viết truyện ngắn,
truyện dài, ca ngợi cái đẹp và những kỹ niệm của đất Thần kinh nơi Linh sinh ra
và lớn lên. Dùng văn chương Linh tô đậm bức tranh của
nghịch cảnh chiến tranh và những éo le đau lòng của đời sống mới sau khi rời bỏ
quê hương.
Định ở thành
Cách chọn đề tài của Định không giống ai. Định
có thể viết về “bánh bèo,” “bánh ú”
nhưng đừng chờ anh chỉ cách làm bánh. Mượn đề tài đó
Định vẻ cả quả địa cầu, vũ trụ với cuộc sống muôn màu muôn sắc. Mầu sắc
của Định không phải là ánh sáng của
Nghĩ đến Định, Văn lại bực mình Nhàn. Văn dỡ chồng thư mới tới định đọc lại thư Nhàn tìm nguyên nhân của sự bực
mình mặc dù trực giác cho Văn biết tại sao Nhàn làm mình bực mình và nguyên
nhân nào đã kéo Nhàn cách xa Văn. Lách lách chồng thư Văn thấy có thư Huấn từ
Lại chuyện Huấn và Ninh. Huấn thuật chuyện
vừa đọc “Trước cửa tam quan” của Ninh đăng trên một tạp chí văn học. Câu chuyện liên quan đến cảm tưởng của Ninh trong chuyến đi thăm
một cổ tự ở quê nhà. Ngôi cổ tự nằm sâu trong vùng Liên khang trên cao
nguyên Trung việt, không biết được xây từ đời nào, kiến trúc đặc biệt, nguồn
gốc tiểu thừa nhưng lối thờ phượng theo đại thừa. Ninh dùng câu chuyện để trình bày quan điểm của Ninh về kinh Bát
Nhã.
Thư
Huấn viết: “Mình sợ ngộ nhận Văn ơi, nhưng mình phải viết. Ninh
viết chuyện 'Trước cổng tam quan'như một nhà phân tâm học, phân tích bệnh lý
bằng cách tạo ra người bệnh. Văn tài của Ninh thu hút độc giả, và hấp
lực của văn khí kéo người đọc vào cơn lốc do tác giả tạo ra, một cơn lốc của
phòng thí nghiệm, không phải cơn lốc tự nhiên của trời đất. Luận đề: cuộc đời
đẹp lắm, đáng sống lắm, đâu phải là không, nó là diệu hữu ... và Ninh dựng
chuyện để hạn chế một cách ngon lành kinh Bát Nhã ở câu đầu: 'Quán tự tại Bồ
Tát ... ngũ uẩn giai không'. Đọc các bài viết khác của Ninh mình biết Ninh
nhuần nhuyễn kinh Bát Nhã, thế sao Ninh cứ lờ cái đoạn sau, 'sắc bất dị không,
không bất dị sắc...'? Bát Nhã không phải chỉ nói về cái
không, nó nói về cái có và cái không.” Huấn kết thúc lá thư, “Mình nghĩ
sáng tác văn chương không phải là đào sâu cái riêng tư, cái trời cho, cái độc
đáo, cái không ai có, và đây là một luận đề dài có dịp mình sẽ viết đầy đủ
hơn.”
Văn có cảm tưởng Huấn đọc vội truyện “Trước cổng tam quan” nên
không công bình trong nhận định. Tuy Ninh không nêu vế
thứ nhì của Bát Nhã “sắc bất dị không, không bất dị sắc” nhưng Ninh đã biện
minh đầy đủ khẳng định cái có như một đối cực cần thiết cho cái không.
Ninh nhấn mạnh cái ‘không” để nêu cái “có”, đối chiếu “tiểu thừa” với “đại
thừa” để làm nổi bật cái tổng thể. Văn nghĩ nếu Huấn chịu khó
đọc đoạn kết của “Trước cổng tam quan” chắc Huấn hiểu được cái nhìn thông suốt
của Ninh về Bát Nhã. Ninh viết: “Chuyện du ký của tôi nơi cổ tự, chiêm
nghiệm cái ngã của tiểu thừa và vô ngã của đại thừa, cái thắc mắc về không và
có của tôi bổng nhiên biến mất, tôi như ngộ được lý chân như của Bát Nhã.
Chuyện văn chương, chuyện luật, chuyện sống, chuyện đạo chuyện đời bổng nhiên ăn khớp với nhau, trong quá khứ cũng như trong hiện tại, và
hy vọng phần nào trong tương lai. Tôi nghe hòa bình với bản
thân và với ngoại giới.”
Trong
số bạn trung học của Văn, có những bạn khắc tính với nhau như Linh và Ngân,
Ngạn và Hùng, nhưng Huấn và Ninh khắc tính nhau một cách đặc biệt. Văn có cảm tưởng Ninh không bao giờ đọc kỹ những gì Huấn viết và
trái lại. Không có gì ngạc nhiên nếu tranh luận về
kinh Bát Nhã. Sự huyền ảo của tâm kinh sẽ còn là đề
tài tranh luận chừng nào còn vũ trụ, còn cuộc sống, còn lời còn chữ.
Ngạc nhiên là - theo Văn - Ninh và Huấn hiểu Bát Nhã
giống nhau lại tranh luận với nhau.
Những việc nho nhỏ cấu thành sự. Văn nhớ có lần Huấn thuật
chuyện nhân một chuyến đi
Một
lần khác nhân nhà văn Mai Thảo ở Hoa Kỳ viếng
Đang
miên man suy nghĩ về Huấn và Ninh, bổng có tiếng còi xe.
Văn nhớ giờ hẹn với Cân chiều nay dự sinh nhật con thứ của Cân.
Cân lại đón. Ở New York Văn chỉ có Cân là bạn. Cân có
một lối sống gọn gàng, ngăn nắp, một lối suy nghĩ đơn giản nhưng thâm trầm. Cân
có khuynh hướng xã hội nhưng chấp nhận sự khác biệt giữa giàu nghèo, giữa người
có ưu thế và kẻ bị thống trị. Cân không nghĩ có một chế độ chính trị nào có thể
đem lại sự công bình tuyệt đối. Nếu có họa may ở trong trí tưởng tượng của một
số người tự cho là vĩ nhân hay được tôn
Trời
về chiều, xe cộ lên đèn, đèn xa lộ cũng bắt đầu bật
sáng. Xe vừa qua khỏi cầu
Cân
gật gù. Anh đang chú ý đến lưu thông. Bỏ đường Park,
Cân quẹo xe vào một con đường nhỏ hơn, nhà cửa hai bên
gọn gàng xinh xắn. Cân ngừng xe trước ngôi nhà nhỏ
quen thuộc, trước nhà là một cây thông tàn lá xanh biếc quanh năm như một cây
noel lớn. Đèn phòng khách sáng choang, trong nhà vẵng ra tiếng nói tiếng cười
của số bạn bè đến trước.
Ngoài
đường bóng tối đã xuống từ lâu, gió bắt đầu xe lạnh.
Trần Văn Sơn
Trần Văn Sơn
|
http://www.vnet.org/tbn |