NGƯỜI CHỊ DÂU

Bà Linh trở mình thức giấc, ánh nắng chiếu qua màn cửa sổ đã lâu, bà cảm thấy ấm trên má. Ngoài vườn tiếng chim sẻ kêu ríu rít; trong nhà yên tĩnh, các cháu đã đi học.

Về thăm quê lần này bà ở chơi lâu nên không vội vàng giờ giấc như những lần trước. Hôm  nào bà cũng dậy trễ, nằm trên giường mơ màng đủ thứ chuyện trước khi dậy, chải chuốt đôi chút, rồi ra nhà bếp nói chuyện với người em gái. Em bà, cô Thúy nhỏ hơn bà mười tuổi cùng chồng là chủ ngôi nhà bố mẹ bà để lại.

            Bà Linh rời khỏi ngôi nhà này năm 26 tuổi, khi bà tái giá. Bà lấy chồng lần đầu năm 17 tuổi. Chồng trước, ông Bình, thương yêu bà rất mực, nhưng chỉ sống hạnh phúc với nhau một năm thì  ông Bình tử nạn. Phong ba bão táp dồn dập đổ xuống cuộc đời con gái của bà. Tám năm sau bà mới có một đời sống ổn định với Hùng, người chồng sau.

Sau năm 1975 bà Linh cùng Hùng và ba người con sang định cư tại Thụy Sĩ. Hai vợ chồng mua một căn nhà rộng rãi ở Geneve cạnh bờ hồ Leman.

            Bà Linh có ba anh chị em. Một người anh, một em trai và Thúy. Song thân bà qua đời đã lâu, ngôi nhà quen thuộc, nơi bà sinh ra và lớn lên để cho người em gái ở. Anh bà đi kháng chiến, sau đó tập kết ra Bắc, năm 1975 trở về, có quyền thế và một đời sống ổn định, nhưng ít quan hệ với các anh chị em khác. Người em trai, sĩ quan quân đội Cộng Hòa bỏ mình trong chiến tranh. Căn nhà bằng gỗ, làm đã lâu năm vẫn còn chắc chắn, chỉ có mái tranh hai năm phải lợp lại một lần, nằm trong một khu vườn hai mẫu đất có nhiều cây ăn trái, mít và nhãn, nhiều nhất là thơm và cau. Năm ngoái trong chuyến trở về thăm nhà, bà Linh giúp em tiền lợp lại mái tranh, nay còn tốt.

            Trước năm 1986 người em gái và chồng làm việc cho một hợp tác xã đóng giày của thị xã Huế. Bà Linh về thăm mấy lần thấy đời sống em chật vật, vợ chồng đi làm cả ngày, con cái ở nhà lêu lỗng, khu vườn cây ăn trái không ai chăm sóc, bà Linh bỏ tiền giúp em thuê người xới đất, làm cỏ, đào giếng đặt bơm nước chăm bón lại khu vườn. Sau một năm thấy hoa lợi đủ chi tiêu, hai vợ chồng xin nghỉ việc hợp tác xã dùng toàn thì giờ săn sóc khu vườn cây ăn trái và trồng rau. Hoa lợi chẳng những đủ chi tiêu  còn dành dụm được chút ít trả dần vốn cho bà Linh. Có em ở nhà  vừa coi vườn vừa bầu bạn, năm nay bà Linh về ở chơi lâu.

            Thường ngày bà Linh dậy trễ, hôm nay bà dậy trễ hơn. Đêm hôm qua bà ngủ không yên giấc. Trằn trọc với ý định, nhưng chưa quyết, đến thăm ngôi nhà bố mẹ chồng cũ, nơi đó Linh đã sống với Bình một tuần lễ trước khi theo chồng vào Nam.  Năm 17 tuổi Linh là thiếu nữ đẹp nhất làng, nhiều thanh niên trong xóm ngấm nghé, nhưng để mơ ước nhiều hơn hy vọng. Gia đình Linh sung túc, thân phụ là một y tá lành nghề của bệnh viện Huế, được làng xóm kính nể. Thanh niên trong làng con nhà nghèo sống bằng nghề làm rẫy, thợ mộc hay thợ hồ. Họ thích ngắm Linh, hát những câu ca dao trữ tình trêu chọc, nhưng họ biết Linh không thuộc về họ.

            Bình quê Kim Long, làm việc ở Sài Gòn sau khi đỗ bằng Thành Chung. Mẹ Bình quen với mẹ Linh. Thấy Linh đẹp, nết na bà ngỏ ý cho con trai. Sau khi xem tấm hình vận Âu phục khôi ngô tuấn tú với chiếc răng cời có duyên ẩn dưới đôi môi nghiêm trang của Bình mẹ Linh rất ưng ý. Bà khéo léo đưa tấm hình cho Linh xem, gián tiếp cho biết bà đã chọn được rể.

            Tết năm đó mẹ Bình dẫn Bình đến thăm gia đình Linh. Đứng ở phòng sau, Linh nhìn trộm Bình qua bức màn vải mỏng trong khi mẹ vừa uống trà vừa nói chuyện với mẹ Bình một cách tương đắt, thỉnh thoảng hỏi Bình những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Linh thấy Bình ngồi yên nghe, nhỏ nhẹ vâng dạ, nhưng đôi mắt không dấu được sự bồn chồn nóng lòng chờ đợi. Linh cảm thấy hài lòng, lo lắng, nôn nao. Linh chưa từng yêu ai, yên tâm chấp nhận sự xếp đặt của mẹ. Nhưng Bình ngồi đó, đẹp trai, cao lớn với chiếc răng cời có duyên Linh đã thấy trên tấm hình làm cho Linh thấy lòng rào rạt, mơ tưởng chuyện yêu đương.

            Bỗng tiếng mẹ gọi: “Linh! con dẹp giúp mẹ mấy tách trà và ra chào bác và anh Bình.”  Linh vén vội mái tóc nhanh nhẹn bước ra cúi chào mẹ Bình, mắt liếc nhanh về phía Bình. Đôi mắt gặp nhau và hai người tìm thấy trong ánh mắt sự chấp nhận lẫn nhau.

            Lễ cưới được tổ chức sáu tháng sau, khi Bình về phép đặc biệt. Cưới xong Linh về nhà chồng một tuần lễ trước khi theo chồng vào Nam. Hạnh phúc chưa được một năm, chưa có con đầu lòng, biến cố tới, chồng Linh bị lính Pháp giết khi tái chiếm các tỉnh miền Nam năm 1946.

            Giữa cảnh loạn li, Linh vượt gian lao trở về quê, định ở với bố mẹ chồng cho phải đạo dâu con. Linh cho bố mẹ Bình biết hoàn cảnh Bình bị lính Pháp giết và tại sao Linh không tìm được xác chồng. Bố mẹ Bình quá đau khổ trước tin dữ, quên nỗi đau khỗ riêng của Linh, thống trách Linh thiếu đạo vợ chồng, nỡ bỏ chồng bơ vơ không mồ mả. Phần đau khổ vì chồng chết, phần gia đình bố mẹ chồng thiếu thương yêu hất hủi, Linh đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.

            Nhiều năm sau Linh gặp Hùng, người cùng làng. Thân phụ Hùng là giáo viên của chính phủ bảo hộ được bổ dạy học tại một tỉnh xa mang theo cả gia đình. Ở làng ít ai biết gia đình của Hùng, chỉ thỉnh thoảng thân phụ Hùng đưa Hùng về thăm quê cho biết. Lần cuối cùng vào năm 1943. Hùng gặp Linh khi đó là một cô gái vừa đến tuổi dậy thì. Hùng ra đi mang theo hình ảnh của Linh, , chờ dịp trở về. Rồi Hùng đi biền biệt. Lấy bằng cử nhân xong Hùng thi tham vụ ngoại giao, sau đó biệt phái làm việc cho Ủy ban Văn hóa Liên hiệp quốc tại Sài gòn.

            Hùng gặp lại Linh năm 1954 tại Huế khi về nghiên cứu kế hoạch trùng tu Đại nội trong chương trình phục hồi di tích văn hóa thế giới của Liên hiệp quốc. Tình bạn, rồi tình yêu đến dễ dàng giữa hai người. Năm sau lễ cưới được tổ chức đơn giản tại Huế. Hùng không biết Linh đã có một đời chồng. Linh không có ý định dấu. Linh dự tính cho Hùng biết trước khi cưới nhau nhưng cơ hội đó không bao giờ tới. Sau khi ổn định tại Thụy Sĩ Linh sống hạnh phúc với Hùng và các con. Linh dần quên quá khứ, và ý muốn nói sự thật với chồng dần dần tan biến. Nhiều đêm trở mình thức giấc, nằm bên chồng Linh có cảm tưởng như mình thiếu trong trắng, nhưng khi muốn nói với chồng Linh lại sợ làm mất cái yên tỉnh của gia đình. 

***

Lần này về quê ở lâu, ý muốn nhìn lại ngôi nhà cũ nơi đó bà Linh đã sống với Bình và đã đau khổ buồn giận bố mẹ chồng bỏ đi  trở lại thôi thúc bà mãnh liệt. Nhưng bà còn do dự. Bà tự hỏi: “thăm gì và còn gì để thăm?” Bà sợ khơi lại đống tro tàn dĩ vãng.

            Nhưng bây giờ bà đã quyết. Chiều hôm qua ra vườn chơi với Thúy đang chăm mấy luống rau, vừa lúc mặt trời đang xuống, bầu trời sáng rực, nắng vàng chiếu vắt lên qua một đám mây trắng lớn làm nổi bật giữa bầu trời một đàn chim đang đập cánh lơ lững bay về hướng chân trời. Bức tranh gợi lại hình ảnh bà thường thấy khi cùng sống với Bình. Mỗi chiều, cơm nước xong, bà và Bình thường mang ghế ra trước sân nhà nhìn mặt trời lặn và nhìn những đàn chim lạc lỏng bay vội về tổ. Mùa thu, Bình thích vừa nhìn chim bay vừa hát đủ cho bà Linh nghe: “Đến nay thu tàn, phương xa kìa chiếc én bay về. Khuất trong mây ngàn, riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê.” Tiếng hát của Bình như còn vẳng vẳng đâu đây. Linh bỗng thấy nhớ Bình tha thiết, nhớ nơi bà đã hưởng mộng đẹp thuở ban đầu của người con gái.

            Tắm xong, bà Linh chọn một chiếc áo mầu hoa cà là mầu Bình thích nhất, trang điểm vội vàng rồi ra đi. Băng qua mấy con đường làng quen thuộc dẫn về phía bờ sông Hương bà thấy khung cảnh lạ dần, cây cối không còn um tùm như trước, nhường chỗ cho nhiều nhà mới mọc chen chúc nhau, mái tranh xen lẫn mái ngói. Đến một cánh đồng nhỏ trồng lúa, bà Linh thấy con đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Một kiệt nhỏ rẽ từ tỉnh lộ là đường dẫn đến nhà Bình. Bà Linh không chắc mình vào đúng lối nếu đầu kiệt nhỏ không có chiếc miếu thần hoàng nay đã bỏ hoang. Thời gian ngắn ngủi ở với Bình mỗi lần về nhà thăm mẹ trở lại bà Linh đã lấy miếu thần hoàng này làm chuẩn để nhận ra đường. Bà bồn chồn. Gần năm mươi năm bà mới trở lại con đường nhỏ này. Cũng gần 50 năm bà không giữ quan hệ nào với gia đình Bình. Bố mẹ Bình chắc không còn, nhưng còn mấy em của Bình? Hai người em, một trai một gái xê xích tuổi với bà, và một chú em út tên là Văn hồi đó độ 12 tuổi chưa biết gì và là người độc nhất trong gia đình có cảm tình với bà. Nhiều khi thấy bà khóc một mình, chú bé Văn đến bên cạnh ngây thơ hỏi: “sao chị khóc?” rồi hôn lên má chị trước khi bẽn lẽn chạy đi.

            Kiệt nhỏ đầy con nít, chỗ này mấy đứa đánh bi cải nhau chí chóe, chỗ kia mấy đứa tụ lại bên cạnh một quán nhỏ mua bánh kẹo. Mấy đứa lớn ngẩng nhìn bà Linh như nhận ra người khách lạ. Bà nghe chúng thì thào: “Việt kiều tụi bây ơi!” Bà mĩm cười. Danh hiệu Việt kiều từng mang đến cho bà vui cũng như buồn. Vui khi được cưng chiều vì Việt kiều có nghĩa có khả năng tiêu rộng rãi, buồn khi bị đối đãi như một người khách lạ trên chính quê hương mình. Bà Linh cảm thấy lạc lỏng.

            Mặt trời lên đã khá cao. Ẫm độ làm khí trời nóng bức. Làn gió nhẹ thổi từ sông Hương im lìm không làm cho bà Linh cảm thấy mát. Bà bước vội để xua đuổi mấy ý nghĩ bực mình. Bà đã nhận ra ngôi nhà ngày xưa, hiện rõ dưới ánh nắng. Bà Linh lấy chiếc nón đang đội xuống cầm tay để quan sát ngôi nhà cho rõ hơn. Ngôi nhà mái ngói trông khô khan, quét vôi trắng, nằm gọn giữa chiếc vườn rộng không còn nhiều cây ăn trái như xưa, mấy luống khoai mì lá vàng thân thể khẳng khiu như thiếu nước. Trong nhà văng vẳng tiếng một phụ nữ đang mắng con. Nghe giọng bà biết ngôi nhà đã đổi chủ. Lòng bà bỗng dưng tê lạnh. Quá khứ chôn chặt 50 năm muốn khơi lại một lần, một chút, cũng không còn . Tất cả đã trở thành dĩ vãng, ngay cả con đường này, ngôi nhà đó, nơi bà đã sung sướng sống với Bình. Tất cả đều xa lạ. Thời gian đã chết. Bà Linh thấy chơi vơi.

            Dấu vội mấy giọt nước mắt dưới chiếc nón lá, bà Linh bước nhanh, rẽ vào lối khác trở về.

***

Ngồi trên máy bay trở về Thụy Sĩ, bà Linh thấy trong lòng bớt nặng nề. Lời chỉ dẫn an toàn của các nữ chiêu đãi viên, âm thanh của máy bay khi cất cánh không làm cho bà thấy lo lo như những chuyến bay trước. Bà tìm thấy sự bình an của tâm hồn sau giây phút xúc động mãnh liệt khi tìm về kỷ niệm xưa. Bà tìm cách lấp một khoảng trống để chỉ thấy một khoảng trống khác, nhưng ít nhất bà đã trở về thăm nơi đó.

            Chiếc máy bay Jumbo 747 hạ thấp cao độ, bà Linh thấy cảnh vật quen thuộc bên dưới hiện dần ra. Bà thoải mái xem lại dây lưng an toàn, sửa thẳng lại lưng ghế, sung sướng sắp được gặp Hùng và các con.

            Phi trường Geneve nhiều hành khách ngoại giao chỉ thua Nữu Ước, rộn rịp như thường lệ. Nhân viên quan thuế và di trú làm việc nhanh chóng và lễ độ. Bà Linh theo đoàn hành khách thông qua thủ tục quan thuế và nhập cảnh xong, vội vàng bước ra ngoài. Nhận ra nét mặt rạng rỡ của mẹ, cô gái út vừa đỡ hành lý cho mẹ vừa ríu rít: “Mẹ! Mẹ về quê ngoại chuyến này lâu vui lắm hã mẹ?”

            Hùng hôn nhẹ lên má vợ phụ họa: “Con nói đúng, anh thấy em gầy đi chút ít nhưng khuôn mặt thật bình an như người vừa đắc đạo. Mấy lần trước mỗi lần thăm nhà trở về anh thấy em buồn như luyến tiếc một cái gì muốn mang theo chẳng được. Em nghiên cứu giáo lý nhà Phật và tập thiền định đã có kết quả.”

            Bà Linh mĩm cười sung sướng.

***

Một buổi sáng đi chợ về, bà Linh thấy một phong thư đóng dấu bưu điện Việt Nam gởi đi từ Đà Lạt. Linh tính báo cho bà một cái gì lại đến xáo trộn đời bà? Vừa bóc thư bà vừa soát duyệt trí nhớ xem còn bạn bè nào ở Đà Lạt. Bà không còn ai thân thích ở Đà Lạt.

            Bà Linh nín thở đọc lá thư, sắc mặt biến từ ngạc nhiên đến xúc động. Đọc xong, không kềm chế nổi bà đặt lá thư xuống bàn ôm mặt khóc nức nở. Vừa lúc đó Hùng đi chơi quần vợt về. Thấy vợ khóc, phong thư còn mở bên cạnh, Hùng thoạt nghĩ chắc có chuyện chẳng lành trong gia đình vợ ở Việt Nam. Nhưng Hùng không tin. Hùng biết vợ là người giỏi chịu đựng và quen kềm chế cảm xúc. Xưa nay buồn khổ gì bà chỉ để thoáng lên nét mặt, chưa bao giờ khóc, ngay cả lần đứa con trai thứ nhì năm đó mới 8 tuổi đi học về bị xe cán phải nằm phòng hồi sinh mấy ngày mới biết thoát chết bà cũng cắn răng chịu đựng không khóc. Hùng yên lặng đến ngồi cạnh bà Linh, âu yếm đặt nhẹ bàn tay lên vai vợ, đôi mắt hỏi han nhìn bà không nói, sẵn sàng chia sẽ thống khổ với bà.

            Bà Linh ngừng khóc, cầm lá thư đưa cho Hùng nhẹ nhàng bảo: “Anh đọc đi.”       

Hồi hộp Hùng mở bức thư:

“Đà Lạt ngày 4 tháng 6 năm 1994

            Chị Linh,

            Tôi xin giới thiệu để chị khỏi ngỡ ngàng. Tôi là Nguyễn Văn Giang, em ông Nguyễn Văn Bình ở Kim Long. Chắc chị còn nhớ người chồng bất hạnh chỉ được hạnh phúc sống bên chị một năm rồi tức tưởi qua đời trong chiến tranh.

            Bốn mươi tám năm nay, từ hồi anh tôi bị lính Pháp bắn chết rồi xô xác xuống sông như lời chị thuật lại, ba má tôi vì quá đau khổ đã không biết phải đối xử với chị như thế nào cho phải. Thế rồi chị trở về với hai bác.

            Một phần vì chiến tranh, một phần chúng tôi còn nhỏ không ai nghĩ đến việc tìm xác anh tôi xem đã trôi dạt phương nào, hơn nữa chỉ có chị là người duy nhất biết những chi tiết cuối cùng trước khi anh tôi qua đời, thì từ đó đến nay gần 50 năm chúng tôi không hề biết tin tức của chị. Do hoàn cảnh thực tế của một đất nước bị chiến tranh và tâm lý chúng ta hoàn toàn cắt đứt quan hệ với nhau.

            Cách đây mấy năm ở Việt Nam có phong trào truy tầm thân nhân thất lạc trong chiến tranh, tôi về Huế hỏi thăm tin chị như bước khởi đầu truy tìm xác của anh tôi. Hơn nữa, chị còn nhớ chú Văn hồi đó 12 tuổi thương chị nhất nhà, thỉnh thoảng chú vẫn hỏi tôi biết tin tức chị ở đâu không.

            Ở Huế tôi được biết chị vừa về thăm quê ở gần sáu tháng và mới trở về Thụy Sĩ. Cô An bạn chị cho tôi địa chỉ của chị.

            Vậy xin chị, vì tình cũ nghĩa xưa với người chồng đã khuất cho tôi biết thật đầy đủ chi tiết những gì chị còn nhớ vào những ngày kinh hoàng năm 1946 đó, may ra được người ta gói ghém chôn cất tại một nghĩa trang tử sĩ nào đó. Hiện nay tỉnh nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ dành cho những người đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Tại nghĩa trang liệt sĩ Bến Cát có một ngôi mộ vô chủ đề tên Nguyễn Văn Bạc. Tôi sẽ xin khai quật để xác minh xem có phải đó là mộ phần của anh tôi không sau khi có thêm chi tiết nơi chị để kiểm chứng. Anh tôi có một chiếc răng cời. Năm về Huế cưới chị, tôi nghe anh tôi định sẽ nhỗ đi, nhưng tôi không biết đã nhỗ chưa trước khi anh tôi lâm nạn.

            Năm 1946 chị trở lại Huế sau khi anh tôi qua đời, nhớ lại tôi rất tiếc ba má tôi và chúng tôi đã đối đãi thiếu thông cảm với chị. Mới rồi tôi đã lên Bến Cát, lên cầu Bến Củi, nhìn con sông Bến Lức khá rộng chảy dưới cầu, vào làng Hòa Định nghe các cụ già kể lại chuyện Tây khủng bố trắng dân làng khi tái chiếm, bắn hằng loạt người đôi khi có cả phụ nữ, chúng tôi biết chị không có cách gì khác hơn là chạy lấy thân để về cho ba má tôi biết sự tình. Lúc này có cơ hội hiểu nổi khổ tâm của chị thì ba má tôi đều đã qua đời.

            Tôi rất mong thư chị hồi âm để chuẩn bị đi Bến Cát một lần nữa.”

Đọc xong thư Hùng thấy đau nhói. Buồn và giận làm Hùng choáng váng. Nhưng Hùng kịp trấn tỉnh. Hùng hiểu, nếu Linh không có cơ hội thổ lộ được sự thầm kín của cuộc đời nàng với Hùng trước khi cưới nhau thì nàng sẽ không đủ can đảm tỏ bày khi đứa con đầu lòng ra đời và hạnh phúc gia đình dồn dập tới. Hùng nhớ thời gian thân mật với Linh trước khi cưới, hơn một lần khi đang vui bỗng nhiên Linh trở nên trang nghiêm nói: “Anh Hùng, có chuyện quan trọng này Linh phải nói với anh.” thì lần nào Hùng cũng sợ mất giây phút thần tiên quí báu trước vẻ đẹp lộng lẫy của Linh gạt phắt: “Không có gì quan trọng hơn giây phút anh và em ở bên nhau.”  Bây giờ Hùng thấm thía nỗi đau của vợ, một mình chôn chặt sầu muộn trong lòng suốt nửa thế kỷ qua, và bỗng thấy thương vợ vô cùng.

            Thấy Linh im lặng chờ đợi, Hùng âu yếm:

“Anh biết anh đã không cho em cơ hội nói chuyện này với anh từ những ngày chưa cưới nhau. Lỗi tại anh. Vấn đề bây giờ là chúng ta có nên cho các con biết không?”

            Linh dứt khoát: “Không, không anh. Chúng ta không có quyền đó.”

***

Ba hôm sau, Linh viết cho Giang.

“Chú Giang,

            Thú thật với chú, chị đã ngạc nhiên và ngỡ ngàng lúc nhận được thư từ thành phố Đà Lạt gởi đến, ở đó chị không còn ai quen, lục trong ký ức cũng không nhớ ai là Nguyễn Văn Giang. Chị vội vàng đọc thư, đến hàng thứ nhì thấy chữ Nguyễn Văn Bình lòng chị quá xúc động. Một dĩ vãng rùng rợn thoáng hiện lại trong trí óc chị, vui buồn đau khổ trên 48 năm trời xuyên qua các biến chuyển của đất nước mà chị đã chôn vùi tận đáy lòng chỉ một mình biết một mình mình hay.

            Chị đã đọc đi đọc lại thư chú. Trước hết chị cảm tạ chú và chú Văn đã nghĩ đến việc tìm kiếm hài cốt người anh quá cố, cũng là người chồng đầu của chị, để mang về quê quán cho được gần mộ phần của cha mẹ.

            Chị cũng tự thấy lòng mình được bình thản hơn, nhất là sau khi đọc đoạn thư chú cho biết các cô các chú sau khi nghe chú tường thuật chuyến đi Bến Cát, đến cầu Bến Củi, xuống tận xã Hòa Định hỏi han các cụ già còn sống sót đã chứng kiến cảnh người Pháp khủng bố dân làng và giết những người theo kháng chiến như thế nào, đã rõ nguyên nhân cái chết bi thảm của anh Bình và thông cảm tại sao chị không thể ở lại tìm cho ra xác chồng trước khi trở về.

            Hồi tưởng lại năm xưa khi trình bày về cái chết của anh Bình, cha mẹ và các cô chú lớn tuổi đều không tin đó là sự thật, nghĩ có một bí ẩn nào bên trong, rồi tìm cách không chấp nhận chị trong gia đình không một lời an ủi thương hại tội nghiệp cho tuổi đời xuân xanh của chị sớm góa bụa. Chị đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.

            Như đã thuật lại cho cha mẹ cách đây 48 năm, chị xin ghi lại các nét chính để chú dùng làm dữ kiện xác minh mồ mả của anh Bình. Chú còn nhớ anh Bình là nhân viên quản lý nhà giam Ông Yệm nơi giam giữ trẻ vị thành niên phạm tội. Khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, anh Bình và một số nhân viên làm việc cho chính quyền cách mạng. Qua các hoạt động của anh Bình chị biết anh đã tham gia phong trào chống Pháp từ trước. Năm 1946 khi Pháp tái chiếm Nam bộ, anh Bình hướng dẫn một số nhân viên sở Ông Yệm, trong đó có anh giáo Trinh, tham gia các tổ du kích tiếp tục chống lại người Pháp. Anh Bình giả làm dân lành sống như các gia đình khác tại một căn nhà cạnh bìa rừng để hoạt động. Cuộc sống rất nguy hiểm bất trắc vì quân Pháp bố ráp thường xuyên. Hơn một lần anh Bình bảo chị: “Em nên tìm cách về Sài Gòn liên lạc với bà con bên ngoại của anh tìm đường về Huế ở với cha mẹ một thời gian. Kháng chiến thành công anh sẽ về đón em.” Thế rồi lần lửa quen với hiểm nguy chị bịn rịn không rời anh được.

            Một buổi sáng trước rạng đông, một tiểu đội lính Pháp ập vào chòi lá anh chị đang ẩn náu, chĩa súng nạt nộ bắt anh dong tay, lục xét muốn đánh anh Bình ngay. Thấy anh Bình nói tiếng Pháp lưu loát chúng cũng nễ không hành hung anh tại chỗ.

            Khi bị dẫn đi anh mặt một sơ mi trắng đã ngả màu, bên ngoài khoác một chiếc áo len màu đà do chính tay chị đan, quần sọt kaki vàng, chiếc răng cời của anh như chú hỏi vẫn còn nguyên.

            Hôm sau, chị bôi mặt mày giả dạng bà già đi với chị Bảy, bạn cùng xóm tìm đến đồn lính Pháp. Họ cho thăm. Anh Bình khuyên chị trốn đi, vài hôm được thả anh sẽ kiếm chị.

            Chị trở về nương náu nhà anh chị giáo Trinh chờ tin anh. Bốn hôm sau, một buổi sáng chị và chị Trinh vào rừng kiếm củi trở về, vừa trông thấy chị, anh giáo Trinh vừa khóc vừa nói: “Chị ơi! liên lạc vừa đến báo tin anh Bình đã bị chúng giết chết rồi. Chúng bắn anh trên cầu Bến Củi trước mắt dân chúng để thị uy, xong đá xác anh xuống sông.”

            Chưa nghe hết câu chị ngả lăn bất tỉnh không biết bao lâu, nhờ vợ chồng anh giáo Trinh cứu chữa mới tỉnh lại. Sau đó chị lên cơn sốt liên miên. Nằm trong chòi lá chị chờ tin liên lạc viên kiếm xác anh. Các cụ già nói xác trôi sông nhiều lắm ba ngày sẽ nổi lên. Chờ mãi không có tin tức gì. Chị nghe nói sông Bến Lức chảy về Thủ Dầu Một rồi ra sông lớn.

            Không còn hy vọng kiếm được xác anh Bình để chôn cất, chị cùng gia đình anh giáo Trinh tìm đường về Thủ Dầu Một . Từ đó chị về Sài gòn, may kiếm được gia đình anh Khánh, bà con xa bên ngoại của anh Bình. Chị bán mấy chiếc áo cưới, thêm chút tiền giúp đỡ của anh chị Khánh ra Vũng Tàu, đi tàu thủy ra Hải Phòng, từ đó lấy tàu điện lên Hà nội, rồi đi xe lửa về Huế. Chị không thể kể lại hết mọi gian truân của chuyến đi hai tháng đó. Nhiều lúc tưởng chừng không thể mang xác về đến quê hương. Lúc đó chị vừa 18 tuổi.

            Chị hy vọng với những chi tiết trên và vong hồn linh thiêng của anh Bình sẽ giúp chú định được mộ phần của anh.

            Chị cầu nguyện và chờ thư chú.”

***

Được thư Giang thông báo, năm sau từ Los Angeles Văn đến Geneve thăm gia đình chị Linh. Trở về Văn viết cho anh:

“Anh Giang,

            Nhân có việc đi Thụy Sĩ em có đến thăm chị Linh và gia đình. Đã hẹn trước nên chỉ có anh chị Linh ở nhà. Chị nhìn em bỡ ngỡ không ngờ gặp lại chú bé em chồng cũ năm xưa. Chị nấu bún bò Huế đãi em, và anh Hùng tự tay mở rượu chát đỏ mời em.

            Câu chuyện trao đổi thân tình ấm áp mặc dù đối với anh Hùng em là người xa lạ, và đối với chị Linh em là hiện thân của một kỷ niệm đau buồn nhất của đời chị. Cả ba người đều không nhắc đến anh Bình, mặc dù không ai quên.

            Khi em đến chị Linh chào em, không ôm em vào lòng theo lối tây phương, nhưng lúc đưa em ra cửa chị ôm em vào lòng dấu vội mấy giọt nước mắt nói nhỏ: 'Chú giống anh Bình quá!’ Chị không cùng với anh Hùng tiễn em ra xe, chỉ đứng ở ngưỡng cửa nhìn theo.”

***

Từ đó mỗi lần đi Aâu châu Văn không đến thăm chị Linh nữa. Vào dịp Tết Văn cũng không gởi thiệp chúc Tết chị. Văn vẫn nhớ thương chị, nhưng chị cần được sống bình an.

           

Trần Văn Sơn

Tháng 9 - 1998                       

BinhNam@sbcglobal.net


Trần Văn Sơn

http://www.vnet.org/tbn