NGƯỜI CHỊ DÂU
Bà Linh trở mình thức giấc,
ánh nắng chiếu qua màn cửa sổ đã lâu, bà cảm thấy ấm trên má. Ngoài
vườn tiếng chim sẻ kêu ríu rít; trong nhà yên tĩnh, các cháu đã đi học.
Về thăm quê lần này bà ở
chơi lâu nên không vội vàng giờ giấc như những lần trước. Hôm nào bà cũng dậy trễ, nằm trên giường
mơ màng đủ thứ chuyện trước khi dậy, chải chuốt đôi chút, rồi ra nhà bếp nói
chuyện với người em gái. Em bà, cô Thúy nhỏ hơn bà mười tuổi
cùng chồng là chủ ngôi nhà bố mẹ bà để lại.
Bà Linh rời khỏi ngôi nhà này năm 26 tuổi, khi bà tái giá. Bà lấy chồng lần đầu năm 17 tuổi. Chồng trước, ông Bình,
thương yêu bà rất mực, nhưng chỉ sống hạnh phúc với nhau một năm thì ông Bình tử nạn.
Phong ba bão táp dồn dập đổ xuống cuộc đời con gái của bà. Tám
năm sau bà mới có một đời sống ổn định với Hùng, người chồng sau.
Sau năm 1975 bà Linh cùng Hùng và ba người con sang định cư tại
Thụy Sĩ. Hai vợ chồng mua một căn nhà rộng rãi ở Geneve cạnh bờ hồ Leman.
Bà Linh có ba anh chị em. Một người anh,
một em trai và Thúy. Song thân bà qua đời đã lâu, ngôi nhà quen thuộc,
nơi bà sinh ra và lớn lên để cho người em gái ở. Anh bà đi kháng chiến, sau đó
tập kết ra Bắc, năm 1975 trở về, có quyền thế và một đời sống ổn định, nhưng ít
quan hệ với các anh chị em khác. Người em trai, sĩ quan quân
đội Cộng Hòa bỏ mình trong chiến tranh. Căn nhà bằng gỗ, làm đã lâu năm
vẫn còn chắc chắn, chỉ có mái tranh hai năm phải lợp lại một lần, nằm trong một
khu vườn hai mẫu đất có nhiều cây ăn trái, mít và nhãn, nhiều nhất là thơm và
cau. Năm ngoái trong chuyến trở về thăm nhà, bà Linh giúp em
tiền lợp lại mái tranh, nay còn tốt.
Trước năm 1986 người em gái và chồng làm việc cho một hợp tác xã
đóng giày của thị xã Huế. Bà Linh về thăm mấy lần thấy đời sống em chật
vật, vợ chồng đi làm cả ngày, con cái ở nhà lêu lỗng, khu vườn cây ăn trái
không ai chăm sóc, bà Linh bỏ tiền giúp em thuê người xới đất, làm cỏ, đào
giếng đặt bơm nước chăm bón lại khu vườn. Sau một năm thấy hoa lợi đủ chi tiêu,
hai vợ chồng xin nghỉ việc hợp tác xã dùng toàn thì giờ săn sóc khu vườn cây ăn trái và trồng rau. Hoa lợi chẳng những đủ chi tiêu còn dành dụm
được chút ít trả dần vốn cho bà Linh. Có em ở nhà vừa coi vườn vừa bầu bạn, năm nay bà
Linh về ở chơi lâu.
Thường ngày bà Linh dậy trễ, hôm nay bà dậy trễ hơn. Đêm hôm qua bà ngủ không yên giấc. Trằn trọc với ý định,
nhưng chưa quyết, đến thăm ngôi nhà bố mẹ chồng cũ, nơi đó Linh đã sống với
Bình một tuần lễ trước khi theo chồng vào
Bình quê Kim Long, làm việc ở Sài Gòn sau khi đỗ bằng Thành Chung.
Mẹ Bình quen với mẹ Linh. Thấy Linh đẹp, nết na bà ngỏ ý cho con trai. Sau khi xem tấm hình vận Âu phục
khôi ngô tuấn tú với chiếc răng cời có duyên ẩn dưới đôi môi nghiêm trang của
Bình mẹ Linh rất ưng ý. Bà khéo léo đưa tấm hình cho Linh xem, gián tiếp cho
biết bà đã chọn được rể.
Tết năm đó mẹ Bình dẫn Bình đến thăm gia đình Linh. Đứng ở
phòng sau, Linh nhìn trộm Bình qua bức màn vải mỏng trong khi mẹ vừa uống trà
vừa nói chuyện với mẹ Bình một cách tương đắt, thỉnh thoảng hỏi Bình những câu
hỏi vô thưởng vô phạt. Linh thấy Bình ngồi yên nghe, nhỏ nhẹ
vâng dạ, nhưng đôi mắt không dấu được sự bồn chồn nóng lòng chờ đợi. Linh cảm thấy hài lòng, lo lắng, nôn nao. Linh
chưa từng yêu ai, yên tâm chấp nhận sự xếp đặt của mẹ. Nhưng Bình ngồi
đó, đẹp trai, cao lớn với chiếc răng cời có duyên Linh đã thấy trên tấm hình
làm cho Linh thấy lòng rào rạt, mơ tưởng chuyện yêu đương.
Bỗng tiếng mẹ
gọi: “Linh! con dẹp giúp mẹ mấy tách trà và ra chào
bác và anh Bình.” Linh
vén vội mái tóc
Lễ cưới được tổ chức sáu tháng sau, khi
Bình về phép đặc biệt. Cưới xong Linh về nhà chồng một tuần lễ trước khi
theo chồng vào
Giữa cảnh loạn
li, Linh vượt gian lao trở về quê, định ở với bố mẹ
chồng cho phải đạo dâu con. Linh cho bố mẹ Bình biết hoàn
cảnh Bình bị lính Pháp giết và tại sao Linh không tìm được xác chồng. Bố
mẹ Bình quá đau khổ trước tin dữ, quên nỗi đau khỗ riêng của Linh, thống trách
Linh thiếu đạo vợ chồng, nỡ bỏ chồng bơ vơ không mồ mả. Phần
đau khổ vì chồng chết, phần gia đình bố mẹ chồng thiếu thương yêu hất hủi, Linh
đành gạt nước mắt trở về nhà bố mẹ.
Nhiều năm sau Linh gặp Hùng, người cùng làng. Thân phụ Hùng
là giáo viên của chính phủ bảo hộ được bổ dạy học tại một tỉnh xa mang theo cả gia đình. Ở làng ít ai biết gia
đình của Hùng, chỉ thỉnh thoảng thân phụ Hùng đưa Hùng về thăm quê cho biết.
Lần cuối cùng vào năm 1943. Hùng gặp
Linh khi đó là một cô gái vừa đến tuổi dậy thì. Hùng ra đi mang theo
hình ảnh của Linh, , chờ dịp trở về. Rồi Hùng đi biền biệt. Lấy bằng cử nhân xong Hùng thi tham
vụ ngoại giao, sau đó biệt phái làm việc cho Ủy ban Văn hóa Liên hiệp quốc tại
Sài gòn.
Hùng gặp lại Linh năm 1954 tại Huế khi về nghiên cứu kế hoạch trùng
tu Đại nội trong chương trình phục hồi di tích văn hóa thế giới của Liên hiệp
quốc. Tình bạn, rồi tình yêu đến dễ dàng giữa hai
người. Năm sau lễ cưới được tổ chức đơn giản tại Huế. Hùng
không biết Linh đã có một đời chồng. Linh không có ý
định dấu. Linh dự tính cho Hùng biết trước khi cưới nhau nhưng cơ hội đó
không bao giờ tới. Sau khi ổn định tại Thụy Sĩ Linh sống hạnh phúc với Hùng và
các con. Linh dần quên quá khứ, và ý muốn nói sự thật với
chồng dần dần tan biến. Nhiều đêm trở mình thức giấc,
nằm bên chồng Linh có cảm tưởng như mình thiếu trong trắng, nhưng khi muốn nói
với chồng Linh lại sợ làm mất cái yên tỉnh của gia đình.
***
Lần này về quê ở lâu, ý muốn nhìn lại ngôi nhà
cũ nơi đó bà Linh đã sống với Bình và đã đau khổ buồn giận bố mẹ chồng bỏ đi trở lại thôi thúc
bà mãnh liệt. Nhưng bà còn do dự. Bà tự hỏi: “thăm gì và còn gì để thăm?” Bà sợ khơi lại đống tro tàn dĩ vãng.
Nhưng bây giờ bà đã quyết. Chiều hôm qua ra vườn chơi với
Thúy đang chăm mấy luống rau, vừa lúc mặt trời đang xuống, bầu trời sáng rực,
nắng vàng chiếu vắt lên qua một đám mây trắng lớn làm nổi bật giữa bầu trời một
đàn chim đang đập cánh lơ lững bay về hướng chân trời. Bức
tranh gợi lại hình ảnh bà thường thấy khi cùng sống với Bình. Mỗi chiều, cơm nước xong, bà và Bình thường mang ghế ra trước sân
nhà nhìn mặt trời lặn và nhìn những đàn chim lạc lỏng bay vội về tổ. Mùa
thu, Bình thích vừa nhìn chim bay vừa hát đủ cho bà
Linh nghe: “Đến nay thu tàn, phương xa kìa chiếc én bay về. Khuất
trong mây ngàn, riêng ta nhìn đâu thấy bóng quê.” Tiếng
hát của Bình như còn vẳng vẳng đâu đây. Linh bỗng thấy
nhớ Bình tha thiết, nhớ nơi bà đã hưởng mộng đẹp thuở ban đầu của người con
gái.
Tắm xong, bà Linh chọn một chiếc áo mầu hoa cà là mầu Bình thích
nhất, trang điểm vội vàng rồi ra đi. Băng qua mấy con đường làng quen
thuộc dẫn về phía bờ sông Hương bà thấy khung cảnh lạ dần, cây cối không còn um
tùm như trước, nhường chỗ cho nhiều nhà mới mọc chen
chúc nhau, mái tranh xen lẫn mái ngói. Đến một cánh đồng nhỏ
trồng lúa, bà Linh thấy con đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Một kiệt nhỏ rẽ từ tỉnh lộ là đường dẫn đến nhà Bình. Bà Linh không chắc mình vào đúng lối nếu đầu kiệt nhỏ không có
chiếc miếu thần hoàng nay đã bỏ hoang. Thời gian ngắn
ngủi ở với Bình mỗi lần về nhà thăm mẹ trở lại bà Linh đã lấy miếu thần hoàng
này làm chuẩn để nhận ra đường. Bà bồn chồn.
Gần năm mươi năm bà mới trở lại con đường nhỏ này. Cũng gần
50 năm bà không giữ quan hệ nào với gia đình Bình. Bố
mẹ Bình chắc không còn, nhưng còn mấy em của Bình? Hai người em, một
trai một gái xê xích tuổi với bà, và một chú em út tên là Văn hồi đó độ 12 tuổi
chưa biết gì và là người độc nhất trong gia đình có cảm tình với bà. Nhiều khi
thấy bà khóc một mình, chú bé Văn đến bên cạnh ngây thơ hỏi: “sao chị khóc?”
rồi hôn lên má chị trước khi bẽn lẽn chạy đi.
Kiệt nhỏ đầy con nít, chỗ này mấy đứa đánh bi cải nhau chí
chóe, chỗ kia mấy đứa tụ lại bên cạnh một quán nhỏ mua
bánh kẹo. Mấy đứa lớn ngẩng nhìn bà Linh như nhận ra người
khách lạ. Bà nghe chúng thì thào: “Việt kiều tụi bây ơi!” Bà mĩm cười. Danh hiệu Việt kiều từng mang
đến cho bà vui cũng như buồn. Vui khi được cưng chiều
vì Việt kiều có nghĩa có khả năng tiêu rộng rãi, buồn khi bị đối đãi như một
người khách lạ trên chính quê hương mình. Bà Linh cảm
thấy lạc lỏng.
Mặt trời lên đã khá cao. Ẫm độ làm khí
trời nóng bức. Làn gió nhẹ thổi từ sông Hương im lìm
không làm cho bà Linh cảm thấy mát. Bà bước vội để xua
đuổi mấy ý nghĩ bực mình. Bà đã nhận ra ngôi nhà ngày
xưa, hiện rõ dưới ánh nắng. Bà Linh lấy chiếc nón đang đội xuống cầm tay để quan sát ngôi nhà cho rõ hơn. Ngôi nhà mái ngói trông
khô khan, quét vôi trắng, nằm gọn giữa chiếc vườn rộng không còn nhiều cây ăn
trái như xưa, mấy luống khoai mì lá vàng thân thể khẳng khiu như thiếu nước. Trong nhà văng vẳng tiếng một phụ nữ đang mắng con. Nghe giọng bà biết ngôi nhà đã đổi chủ. Lòng bà bỗng dưng tê
lạnh. Quá khứ chôn chặt 50 năm muốn khơi lại một lần, một chút, cũng không còn . Tất cả đã trở thành dĩ vãng, ngay cả con đường này,
ngôi nhà đó, nơi bà đã sung sướng sống với Bình. Tất cả đều xa
lạ. Thời gian đã chết. Bà
Linh thấy chơi vơi.
Dấu vội mấy giọt nước mắt dưới chiếc nón lá, bà Linh bước
***
Ngồi trên máy bay trở về Thụy Sĩ, bà Linh thấy
trong lòng bớt nặng nề. Lời chỉ dẫn an toàn của các nữ
chiêu đãi viên, âm thanh của máy bay khi cất cánh không làm cho bà thấy lo lo
như những chuyến bay trước. Bà tìm thấy sự bình an của
tâm hồn sau giây phút xúc động mãnh liệt khi tìm về kỷ niệm xưa. Bà tìm cách lấp một khoảng trống để chỉ thấy một khoảng trống khác,
nhưng ít nhất bà đã trở về thăm nơi đó.
Chiếc máy bay Jumbo 747 hạ thấp cao độ, bà Linh thấy cảnh vật quen
thuộc bên dưới hiện dần ra. Bà thoải mái xem lại dây lưng an toàn, sửa thẳng lại lưng ghế, sung sướng sắp được gặp
Hùng và các con.
Phi trường Geneve nhiều hành khách ngoại giao chỉ thua Nữu Ước, rộn
rịp như thường lệ. Nhân viên quan thuế và di trú làm
việc
Hùng hôn nhẹ
lên má vợ phụ họa: “Con nói đúng, anh thấy em gầy đi chút ít nhưng khuôn mặt
thật bình an như người vừa đắc đạo. Mấy lần trước mỗi lần thăm nhà trở về anh
thấy em buồn như luyến tiếc một cái gì muốn mang theo
chẳng được. Em nghiên cứu giáo lý nhà Phật và tập thiền định
đã có kết quả.”
Bà Linh mĩm
cười sung sướng.
***
Một buổi sáng đi chợ về, bà Linh thấy một phong
thư đóng dấu bưu điện Việt
Bà Linh nín thở
đọc lá thư, sắc mặt biến từ ngạc nhiên đến xúc động.
Đọc xong, không kềm chế nổi bà đặt lá thư xuống bàn ôm
mặt khóc nức nở. Vừa lúc đó Hùng đi chơi quần vợt về. Thấy vợ khóc, phong thư còn mở bên cạnh, Hùng thoạt nghĩ chắc có chuyện chẳng
lành trong gia đình vợ ở Việt
Bà Linh ngừng
khóc, cầm lá thư đưa cho Hùng nhẹ nhàng bảo: “Anh đọc
đi.”
Hồi hộp Hùng mở bức thư:
“Đà Lạt ngày 4 tháng 6 năm 1994
Chị Linh,
Tôi xin giới thiệu để chị khỏi ngỡ ngàng. Tôi
là Nguyễn Văn Giang, em ông Nguyễn Văn Bình ở Kim Long. Chắc chị còn nhớ người chồng bất hạnh chỉ được hạnh phúc sống bên chị
một năm rồi tức tưởi qua đời trong chiến tranh.
Bốn mươi tám năm nay, từ hồi anh tôi bị lính Pháp bắn chết rồi xô
xác xuống sông như lời chị thuật lại, ba má tôi vì quá đau khổ đã không biết
phải đối xử với chị như thế nào cho phải. Thế rồi chị
trở về với hai bác.
Một phần vì
chiến tranh, một phần chúng tôi còn nhỏ không ai nghĩ đến việc tìm xác anh tôi
xem đã trôi dạt phương nào, hơn nữa chỉ có chị là người duy nhất biết những chi
tiết cuối cùng trước khi anh tôi qua đời, thì từ đó đến nay gần 50 năm chúng
tôi không hề biết tin tức của chị. Do hoàn cảnh thực tế của một đất nước bị
chiến tranh và tâm lý chúng ta hoàn toàn cắt đứt quan hệ với nhau.
Cách đây mấy năm ở Việt
Ở Huế tôi được
biết chị vừa về thăm quê ở gần sáu tháng và mới trở về Thụy Sĩ. Cô An bạn chị cho tôi địa chỉ của chị.
Vậy xin chị, vì
tình cũ nghĩa xưa với người chồng đã khuất cho tôi biết thật đầy đủ chi tiết
những gì chị còn nhớ vào những ngày kinh hoàng năm 1946 đó, may ra được người
ta gói ghém chôn cất tại một nghĩa trang tử sĩ nào đó. Hiện
nay tỉnh nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ dành cho những người đã bỏ mình trong
cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Tại nghĩa
trang liệt sĩ Bến Cát có một ngôi mộ vô chủ đề tên Nguyễn Văn Bạc. Tôi sẽ xin
khai quật để xác minh xem có phải đó là mộ phần của anh tôi không sau khi có
thêm chi tiết nơi chị để kiểm chứng. Anh tôi có một chiếc răng cời. Năm về Huế cưới chị, tôi nghe anh tôi định sẽ nhỗ đi, nhưng tôi
không biết đã nhỗ chưa trước khi anh tôi lâm nạn.
Năm 1946 chị trở lại Huế sau khi anh tôi qua đời, nhớ lại tôi rất
tiếc ba má tôi và chúng tôi đã đối đãi thiếu thông cảm với chị. Mới rồi
tôi đã lên Bến Cát, lên cầu Bến Củi, nhìn con sông Bến Lức khá rộng chảy dưới
cầu, vào làng Hòa Định nghe các cụ già kể lại chuyện Tây khủng bố trắng dân
làng khi tái chiếm, bắn hằng loạt người đôi khi có cả phụ nữ, chúng tôi biết
chị không có cách gì khác hơn là chạy lấy thân để về cho ba má tôi biết sự tình.
Lúc này có cơ hội hiểu nổi khổ tâm của chị thì ba má tôi đều
đã qua đời.
Tôi rất mong thư chị hồi âm để chuẩn bị đi Bến Cát một lần nữa.”
Đọc xong thư Hùng
thấy đau nhói. Buồn và giận làm Hùng choáng váng. Nhưng Hùng
kịp trấn tỉnh. Hùng hiểu, nếu Linh không có cơ hội thổ lộ được sự thầm
kín của cuộc đời nàng với Hùng trước khi cưới nhau thì nàng sẽ không đủ can đảm
tỏ bày khi đứa con đầu lòng ra đời và hạnh phúc gia đình dồn dập tới. Hùng nhớ
thời gian thân mật với Linh trước khi cưới, hơn một lần khi đang vui bỗng nhiên
Linh trở nên trang nghiêm nói: “Anh Hùng, có chuyện quan trọng này Linh phải
nói với anh.” thì lần nào Hùng cũng sợ mất giây phút thần tiên quí báu trước vẻ
đẹp lộng lẫy của Linh gạt phắt: “Không có gì quan trọng hơn giây phút anh và em
ở bên nhau.” Bây giờ Hùng thấm thía nỗi
đau của vợ, một mình chôn chặt sầu muộn trong lòng suốt nửa thế kỷ qua, và bỗng
thấy thương vợ vô cùng.
Thấy Linh im
lặng chờ đợi, Hùng âu yếm:
“Anh biết anh đã không cho em cơ hội nói
chuyện này với anh từ những ngày chưa cưới nhau. Lỗi tại
anh. Vấn đề bây giờ là chúng ta có nên cho các con biết không?”
Linh dứt khoát:
“Không, không anh. Chúng ta không có quyền đó.”
***
Ba hôm sau, Linh viết cho
Giang.
“Chú Giang,
Thú thật với
chú, chị đã ngạc nhiên và ngỡ ngàng lúc nhận được thư từ thành phố Đà Lạt gởi
đến, ở đó chị không còn ai quen, lục trong ký ức cũng không nhớ ai là Nguyễn
Văn Giang. Chị vội vàng đọc thư, đến hàng thứ nhì thấy
chữ Nguyễn Văn Bình lòng chị quá xúc động. Một dĩ vãng rùng
rợn thoáng hiện lại trong trí óc chị, vui buồn đau khổ trên 48 năm trời xuyên
qua các biến chuyển của đất nước mà chị đã chôn vùi tận đáy lòng chỉ một mình
biết một mình mình hay.
Chị đã đọc đi
đọc lại thư chú. Trước hết chị cảm
tạ chú và chú Văn đã nghĩ đến việc tìm kiếm hài cốt người anh quá cố, cũng là
người chồng đầu của chị, để mang về quê quán cho được gần mộ phần của cha mẹ.
Chị cũng tự
thấy lòng mình được bình thản hơn, nhất là sau khi đọc đoạn thư chú cho biết
các cô các chú sau khi nghe chú tường thuật chuyến đi Bến Cát, đến cầu Bến Củi,
xuống tận xã Hòa Định hỏi han các cụ già còn sống sót đã chứng kiến cảnh người
Pháp khủng bố dân làng và giết những người theo kháng chiến như thế nào, đã rõ
nguyên nhân cái chết bi thảm của anh Bình và thông cảm tại sao chị không thể ở
lại tìm cho ra xác chồng trước khi trở về.
Hồi tưởng lại
năm xưa khi trình bày về cái chết của anh Bình, cha mẹ và các cô chú lớn tuổi
đều không tin đó là sự thật, nghĩ có một bí ẩn nào bên trong, rồi tìm cách
không chấp nhận chị trong gia đình không một lời an ủi thương hại tội nghiệp
cho tuổi đời xuân xanh của chị sớm góa bụa. Chị đành gạt nước
mắt trở về nhà bố mẹ.
Như đã thuật lại cho cha mẹ cách đây 48 năm, chị xin ghi lại các
nét chính để chú dùng làm dữ kiện xác minh mồ mả của anh Bình. Chú còn nhớ anh Bình là nhân viên quản lý nhà giam Ông Yệm nơi giam
giữ trẻ vị thành niên phạm tội. Khi Việt Minh cướp
chính quyền năm 1945, anh Bình và một số nhân viên làm việc cho chính quyền
cách mạng. Qua các hoạt động của anh Bình chị biết anh
đã tham gia
Một buổi sáng
trước rạng đông, một tiểu đội lính Pháp ập vào chòi lá anh chị đang ẩn náu,
chĩa súng nạt nộ bắt anh dong tay, lục xét muốn đánh
anh Bình ngay. Thấy anh Bình nói tiếng Pháp lưu loát chúng cũng nễ không hành
hung anh tại chỗ.
Khi bị dẫn đi
anh mặt một sơ mi trắng đã ngả màu, bên ngoài khoác một chiếc áo len màu đà do chính
tay chị đan, quần sọt kaki vàng, chiếc răng cời của
anh như chú hỏi vẫn còn nguyên.
Hôm sau, chị bôi mặt mày giả dạng bà già đi với chị Bảy, bạn cùng
xóm tìm đến đồn lính Pháp. Họ cho thăm. Anh Bình khuyên chị trốn đi, vài hôm được thả anh sẽ kiếm chị.
Chị trở về nương náu nhà anh chị giáo Trinh chờ tin anh. Bốn
hôm sau, một buổi sáng chị và chị Trinh vào rừng kiếm củi trở về, vừa trông thấy
chị, anh giáo Trinh vừa khóc vừa nói: “Chị ơi! liên
lạc vừa đến báo tin anh Bình đã bị chúng giết chết rồi. Chúng
bắn anh trên cầu Bến Củi trước mắt dân chúng để thị uy, xong đá xác anh xuống
sông.”
Chưa nghe hết
câu chị ngả lăn bất tỉnh không biết bao lâu, nhờ vợ
chồng anh giáo Trinh cứu chữa mới tỉnh lại. Sau đó chị lên cơn sốt liên miên. Nằm trong chòi lá chị chờ tin liên lạc viên kiếm xác anh. Các cụ già nói xác trôi sông nhiều lắm ba ngày sẽ nổi lên. Chờ mãi không có tin tức gì. Chị nghe nói
sông Bến Lức chảy về Thủ Dầu Một rồi ra sông lớn.
Không còn hy
vọng kiếm được xác anh Bình để chôn cất, chị cùng gia đình anh giáo Trinh tìm
đường về Thủ Dầu Một . Từ đó chị về Sài gòn, may kiếm được gia đình anh Khánh, bà con xa bên ngoại
của anh Bình. Chị bán mấy chiếc áo cưới, thêm chút tiền giúp đỡ của anh chị
Khánh ra Vũng Tàu, đi tàu thủy ra Hải Phòng, từ đó lấy tàu điện lên Hà nội, rồi
đi xe lửa về Huế. Chị không thể kể lại hết mọi gian truân của
chuyến đi hai tháng đó. Nhiều lúc tưởng chừng không
thể mang xác về đến quê hương. Lúc đó chị vừa 18 tuổi.
Chị hy vọng với những chi tiết trên và vong hồn linh thiêng của anh
Bình sẽ giúp chú định được mộ phần của anh.
Chị cầu nguyện và chờ thư chú.”
***
Được thư Giang thông
báo, năm sau từ Los Angeles Văn đến Geneve thăm gia đình chị Linh. Trở về Văn
viết cho anh:
“Anh Giang,
Nhân có việc đi Thụy Sĩ em có đến thăm chị Linh và gia đình.
Đã hẹn trước nên chỉ có anh chị Linh ở nhà. Chị nhìn
em bỡ ngỡ không ngờ gặp lại chú bé em chồng cũ năm xưa. Chị nấu bún bò Huế đãi
em, và anh Hùng tự tay mở rượu chát đỏ mời em.
Câu chuyện trao đổi thân tình ấm áp mặc dù đối với anh Hùng em là
người xa lạ, và đối với chị Linh em là hiện thân của một kỷ niệm đau buồn nhất
của đời chị. Cả ba người đều không nhắc đến anh Bình,
mặc dù không ai quên.
Khi em đến chị
Linh chào em, không ôm em vào lòng theo lối tây
phương, nhưng lúc đưa em ra cửa chị ôm em vào lòng dấu vội mấy giọt nước mắt
nói nhỏ: 'Chú giống anh Bình quá!’ Chị không cùng với anh Hùng tiễn em ra xe, chỉ đứng ở ngưỡng cửa nhìn theo.”
***
Từ đó mỗi lần đi Aâu châu
Văn không đến thăm chị Linh nữa. Vào dịp Tết Văn cũng không gởi thiệp chúc Tết
chị. Văn vẫn nhớ thương chị, nhưng chị cần được sống
bình an.
Trần Văn Sơn
Tháng
9 - 1998
Trần Văn Sơn
|
http://www.vnet.org/tbn |