Tôi làm nghề dạy học

 

Trần Văn Sơn

Trong các nghề ai không yêu nghề dạy học, một nghề cao quý và được kính nể. Thuở  nhỏ mới cắp sách đến trường tôi cũng ước mơ lớn lên làm nghề dạy học. Nhưng do một tình cờ, tôi bỗng sợ nghề dạy học.

Cuối năm 1953 tôi học lớp đệ nhị trường trung học Khải Định ban B, thầy Đinh Quy dạy toán, hình học không gian. Một buổi sáng thầy Quy dạy hai giờ lớp tôi, đệ nhị B2. Hai giờ sau thầy dạy lớp đệ nhị B1 bên cạnh. Sau giờ thầy Quy, thầy Tôn Thất Tắc dạy Vật Lý bệnh cho học trò nghỉ. Đám bạn tôi kéo ra trước trường chơi banh, đánh bi. Tôi xách cặp len lẻn rảo ngoài các lớp xem các thầy dạy học.

Đứng bên cửa sổ lớp đệ nhị B1 tôi thấy một hình ảnh thật quen. Thầy Quy đứng trước bảng đen, trên bảng có một vòng tròn vẽ trên một mặt phẳng nằm ngang, tay thầy cầm một viên phấn và thầy đang chứng minh một định lý hình học y như thầy vừa giảng cho chúng tôi một giờ trước đó. Hai hình ảnh y như một, cũng vòng tròn đó, cũng vị trí đó của thầy trước bảng đen, cũng những câu nói đó không thiếu không thừa một chữ thầy đã chứng minh một cách tuyệt vời cái định lý của thầy. Tôi thấy thương thầy. Một giờ trước, khi nghe thầy giảng bài tôi sung sướng như được chứng kiến một biễu diễn nghệ thuật, một giờ sau tôi có cảm tưởng thầy đang đóng lại một vở kịch thầy đã đóng một giờ trước, một năm trước hay nhiều năm trước … Tôi bỗng có một suy nghĩ: nghề dạy học không hợp với tôi. Nhưng tình cảm của tôi đối với các thầy trở nên đậm đà hơn. Tôi biết sự hy sinh của quý thầy hằng năm hằng tháng hằng ngày làm một việc không có gì lý thú để khai mở trí tuệ của chúng tôi.

Trong những buổi dạy học đôi khi các thầy chỉ có một chút vui nhỏ nhỏ và nếu học trò làm thầy thất vọng thì đó là điều vô ơn nhất của học trò đối với thầy. Tôi đã có một lần “vô ơn” với thầy Bùi Tấn. Thầy Bùi Tấn dạy toán chúng tôi năm đệ ngũ, cơ sở đặt tại trường Việt Anh gần sân vận động Huế. Hôm đó thầy Tấn dạy cách giải hằng phương trình hai ẩn số. Nguyên tắc là làm cho một trong hai ẩn số có cùng thừa số để trừ mất nhau đi chỉ còn lại một ẩn số. Thế là xong. Vấn đề là nhân hai vế của hai phương trình với hai số nào để đạt được kết quả. Cái thú của dạy toán đại số là ở chỗ đó, và có thể trong một buổi sáng mệt nhọc khi gọi một cậu học trò cậu học trò tìm ngay ra được các con số đó. Sáng đó thầy Tấn viết hai phương trình lên bảng và chờ học trò tìm số nhân. Không thấy ai trả lời thầy gọi tôi, hy vọng rằng tôi sẽ nói hai số nhân thầy đang chờ đợi. Nhưng vì lười biếng tôi đã làm thầy thất vọng. Tôi trả lời: “thưa thầy con không biết”. Thầy Tấn bỗng nổi giận đuổi tôi ra khỏi lớp. Thầy tiếp tục giảng bài, hết giờ thầy cầm cặp bước ra khỏi lớp không thèm nhìn đến tôi. Tôi thật hối hận.

Nhưng cái gì cũng có số. Tôi chạy trốn nghề dạy học, để rồi suốt bao nhiêu năm vẫn làm nghề dạy học nhưng không được xem là thầy. Cuối năm 1954 sau khi thi đỗ Tú tài bán phần, cuộc chiến tranh Pháp -Việt vừa kết thúc, tôi tiễn hai người bạn thân ra Bắc tập kết, Dương Vân Đình và cô Thuần, em ruột của bạn Hoàng Trọng Đáo xong, tôi vào Sàigòn học ngành cán sự vô tuyến điện, và tiếp tục tự học thi Tú tài II.

Cuối năm 1955 sau khi đậu Tú tài II tại Sàigòn tôi gia nhập Hải quân Việt Nam và sang Pháp theo học ngành cơ khí hàng hải. Trở về Việt Nam năm 1957 tôi chỉ phục vụ trên các chiến hạm của Hải quân Việt Nam trong một năm. Tháng 8 năm 1958 khi đang ở Subic Bay, Phi Luật Tân, tôi được  lệnh thuyên chuyển về trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang. Trường này do hải quân Pháp thành lập mấy năm trước và vừa giao lại cho hải quân Việt Nam trước khi rút về. Nhiệm vụ của chúng tôi là thiết lập một chương trình huấn luyện sĩ quan hải quân hoàn toàn bằng Việt Ngữ. Khi tôi đáo nhiệm Nha Trang, khóa 8 sĩ quan hải quân vừa vào trường. Và tôi làm nghề dạy học tại đó trong suốt 13 năm từ năm 1958 đến năm 1971 huấn luyện từ khóa 8 đến khóa 23 khi tôi đắc cử dân biểu Hạ nghị viện đơn vị Nha Trang và giải ngũ.

Chưa hết. Ngoài quân trường, tôi còn dạy học như nghề tay trái tại trường Trung học Võ Tánh Nha Trang do thầy Lê Nguyên Diệm làm hiệu trưởng và các trường tư như trường Văn Học của thầy Nguyễn Bá Mậu, trường Hưng Đạo của các Cha Công giáo, trường Bồ Đề của các Thầy Phật giáo, trường Văn Hóa Quân Đội, trường đại học Huế của viện trưởng Lê Thanh Minh Châu và tiến sĩ toán Nguyễn Văn Hai, khoa trưởng khoa học.

Cái khía của cuộc đời dạy học như tìm tôi và cuốn tôi vào, phạt tôi cái tội chạy trốn nó. Thầy Lê Nguyên Diệm là thầy dạy toán chúng tôi ở lớp đệ tứ. Khi thầy làm hiệu trưởng trường Võ Tánh theo lệnh của bộ giáo dục thầy mở thêm lớp đệ nhất và thiếu thầy, thầy mời ông Nguyễn Xuân Vinh ở Không quân, ông Lê Phụng và tôi ở Hải quân dạy các môn Toán, Lý Hóa và Cơ học. Thầy Diệm vẫn xem tôi như học trò của thầy năm xưa với một sự thân mật thầy trò thật dễ chịu.

Học trò các lớp đệ nhất trường Võ Tánh Nha Trang sau khi đỗ Tú Tài II thi vào các ngành hành chánh, sư phạm, hải quân, không quân, y khoa, hay xuất ngoại, và cũng có người vào bưng theo kháng chiến. Những năm tháng về sau tôi có dịp gặp lại những người học trò này trong những hoàn cảnh khác nhau, vui có, buồn có.

Tôi gặp lại Trịnh Toàn tại đại học Sàigòn khi tôi ghi tên thi lấy chứng chỉ cuối cùng của văn bằng Cử nhân Giáo khoa Toán. Võ Đình Tâm người học trò xuất sắc nhất, học như chơi, chơi như học, du học Pháp, và khi tôi đến thăm Paris năm 1992 anh đã là giáo sư Toán tại một đại học nổi tiếng ở Paris. Anh ấy giỏi quá, nổi tiếng quá và mấy người bạn tôi ở Paris không tin có lúc một người tầm thường như tôi đã có cái hân hạnh dạy toán anh ấy tại thành phố biển.

Vận mệnh trớ trêu giúp tôi gặp lại anh Nguyễn Văn Báu. Anh Báu  học sư phạm, sau ra bưng theo kháng chiến. Sau năm 1975 anh ấy trở về phụ  trách Hội Trí thức thành phố Sàigòn lúc đó đã đổi tên ra thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 9 năm 1975 khi tôi đang bị giam tại nhà tù Đồng Găng nằm sâu trong vùng rừng núi Khánh Hòa đầy cọp thì nhờ anh Hồ Ngọc Nhuận vận động được thả ra vào Sàigòn theo học một lớp chính trị dành cho giới trí thức miền Nam. Cùng được thả ra với tôi là anh Trần Văn Thung cũng là học trò cũ của Võ Tánh Nha Trang, dân biểu tỉnh Khánh Hòa lúc đó đang bị giam tại quận Diên Khánh. Anh Báu là một trong những người phụ trách lớp này.Tôi không nhớ anh nhưng anh nhận ra tôi là thầy cũ và đã hết lòng giúp đỡ. Anh viết giấy giới thiệu để tôi có thể rút tiền trước đó tôi gởi tại Ngân Hàng Tín Nghĩa của ông Nguyễn Tấn Đời. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 ngân hàng Việt Nam Thương Tín đóng vai Ngân Hàng Quốc Gia quản lý tất cả các ngân hàng công tư của miền Nam. Chương mục của tôi không có bao nhiêu, chỉ khoảng 20.000 đồng, và sau đợt đổi tiền lần thứ nhất chỉ có giá trị bằng 40 đồng tiền mới. Việc thứ hai là sau ba tháng nghe các ông Nguyễn Hộ giảng giải về duy vật biện chứng và ông Phạm Hùng đến nói về “tài tình của đảng ta” kết thúc khóa học anh Báu viết giấy giới thiệu tôi để xin việc làm tại địa phương. Về Nha Trang tôi mang giấy giới thiệu đến Ty Giáo dục trước, sau đến Ty Xây dựng. Ở cả hai nơi cán bộ tổ chức đều niềm nở trước giấy giới thiệu, nhưng không xếp việc được. Sau này tôi hiểu vì tôi không có lễ đi trước. Nhưng trong cái rủi có cái may. Nếu tôi có lễ, tôi đi làm không biết qua năm sau khi có cơ hội vượt biên tôi có thể đi được không? Cám ơn anh Báu.

Một người học trò khác, anh Nguyễn Công Hoan, học cùng lớp với anh Trần Văn Thung là người đã giúp tôi và anh Thung vượt biên. Cũng là chuyện tình cờ. Anh Hoan, dân biểu Phú Yên, quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm kỳ 1971-75 cùng ở trong khối đối lập với tôi. Thời gian làm dân biểu Việt Nam Cộng Hòa anh Hoan quen biết thế nào với những người bên kháng chiến không biết. Sau ngày 30/4/1975 một số người này làm lớn trong chính quyền mới ở Phú Khánh (hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa nhập lại) đã mời anh Hoan ra ứng cử dân biểu quốc hội của nước Việt Nam thống nhất tổ chức năm 1976. Anh Hoan đến thăm tôi vào đầu năm 1976 cho biết ý anh muốn từ chối vì anh đã nghe dân Phú Yên than phiền chính sách của chính quyền mới. Tôi khuyên anh Hoan không nên từ chối vì có thể nguy hiểm cho bản thân anh.

Sau khi trở thành dân biểu quốc hội của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hoan có nhiều dịp vào Nha Trang tỉnh lỵ của tỉnh Phú Khánh công tác và hay đến thăm tôi. Từ đó có kế hoạch vượt biên. Phân công đơn giản. Anh Hoan chuẩn bị thuyền, tôi chuẩn bị đường đi. Anh Thung làm ruộng ở Thanh Minh chờ gọi. Chúng tôi vượt biên đêm 27/3/1977. Được tầu chở dầu Nhật Bản, chiếc Ryuko Maru khổng lồ trên đường từ Trung đông trở về, vớt ngày 31/3 và đưa đến hải cảng Yokohama ngày 5/4/1977. Hoan được quốc hội Hoa Kỳ mời sang điều trần về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam nên đi Hoa Kỳ sớm. Thung và tôi chờ đến tháng 10/1977 mới đi Hoa Kỳ diện tị nạn “on parole” với thẻ I-94. Lúc đầu Liên hiệp quốc để Thung và tôi cùng đi Tampa, Florida. Nhưng vào phút chót họ xếp tôi đi Boston, miền Đông Hoa Kỳ còn Thung đi Portland, miền Tây. Thung và tôi vẫn giữ quan hệ mật thiết với nhau và ai cũng tưởng Thung và tôi là anh em ruột. Có người hỏi Thung, ông Sơn người Huế, ông người Khánh Hòa sao lại anh em? Thung trả lời, ông già chúng tôi tha phương cầu thực từ Huế vào Khánh Hòa và sinh tôi ở đó.

Học trò tôi ở các lớp đệ nhất Võ Tánh vào quân ngũ có nhà văn Huỳnh Văn Phú sĩ quan Dù, vào Không quân có Cao Văn Luy, vào Hải quân có Võ Quang Thủ, Võ Văn Qượt nếu chỉ kể những người tôi nhớ được. Thủ và Qượt vào học khóa sĩ quan Hải quân Nha Trang khóa 11 vào năm 1961 và lại gặp tôi ở đó. Nhiều người theo nghiệp y khoa như Đoàn Yến, Hồ Thanh Diệp. Sau khi đổ bác sĩ Yến mở phòng khám bệnh tại Nha Trang và thường khám cho cá nhân tôi và gia đình. Sau này cùng tị nạn tại Hoa Kỳ Yến mở phòng mạch tại Los Angeles và tôi cũng là một bệnh nhân quen thuộc của Yến. Diệp cũng là một bác sĩ của tôi ở Nha Trang tuy ít thường xuyên hơn. Nhưng bà Diệp, chị Hồng Đóa, bác sĩ nha khoa là người săn sóc bộ răng cho cả gia đình tôi hồi trước năm 1975 và sau 30/4/75 trước khi tôi vượt biên.

Anh Đoàn Lu, theo ngành sư phạm và vài năm sau trở về dạy các lớp đệ nhị cấp thay thế các giáo sư quân nhân bán thời như chúng tôi (*).

Những lớp tôi phụ trách thuộc ban toán nên ít nữ sinh. Tại Võ Tánh có cô Anh, cô Cẩm Vân và cô Vân Nhương. Tại trường Văn Hóa Quân Đội có cô Minh Châu và cô Tím, đều là những nữ sinh học giỏi. Qua Minh Châu tôi biết ông cụ thân sinh của cô, một nhà cách mạng từng hoạt động với tướng Nguyễn Sơn hồi kháng chiến chống Pháp, và vẫn giữ quan hệ với ông cụ cho đến khi ông cụ qua đời tại quận Cam. Bà cụ cũng qua đời không lâu sau ông cụ. Cô Tím đối với tôi như một người em gái, thường đến cho quà mấy đứa con của tôi. Xong Tú tài II, Tím vào học ban văn chương, đại học Văn Khoa. Năm 1973 tôi gặp Tím trong một chuyến bay Nha Trang- Sàigòn của hãng Air Việt Nam. Đến trạm hàng không gần chợ Bến Thành, trời sẩm tối, Tím nhờ tôi đưa về nhà. Tối hôm đó, Hạ nghị viện họp khẩn nên tôi không giúp Tím được. Từ đó cho mãi đến nay tôi vẫn không biết Tím ở đâu, để chuyển một lời thăm hỏi và xin lỗi. Tôi cầu nguyện cho người học trò khả ái đó một đời sống bình an qua những biến cố của đất nước trong 32 năm qua.

IMG_0360  Còn một người học trò nữa mà không nhắc tới là một thiếu sót không tha thứ được. Cô Phương Thảo. Nói cô là học trò thì  thật là “nói dốc như con trai xứ Huế” vì cô học cùng lớp với tôi chỉ khác Ban. Xuất thân học trò Đồng Khánh, lên đệ nhị cấp chuyển sang Khải Định học ban A, trong khi tôi học ban B. Tôi gặp Phương Thảo tại chùa Linh Mụ. Bà Viên mẹ Phương Thảo là cư sĩ xuất gia tình nguyện lên chùa lo cơm nước cho ôn Thích Đôn Hậu. Mùa hè năm 1953 vừa học xong đệ tam tôi cũng theo Mẹ lên chùa tu học và chơi với chú Bình (sau này trở thành Hòa Thượng Thích Trí Chơn tu tại Phật Học Viện ở Sepulveda, Los Angeles và đã viên tịch)

   (Phương Thảo - họa sĩ Hoàng Thuyên)

       họa theo hình chụp ngày 2/7/1954

Bà Viên nhờ tôi chỉ toán cho Phương Thảo tại chùa Linh Mụ mỗi tối tại căn nhà ngang nơi hậu viện của chùa. Và cái hình ảnh của cô học trò ban A đó vẫn mãi mãi trong tôi. Chúng tôi lập gia đình đầu năm 1960 sau khi tôi đi học ở Pháp trở về. Ngày đám cưới có Trương Quang Cảnh và Vương Hữu Cáp là hai bạn cùng lớp tham dự.

Chuyện học trò cũ cũng có những khúc mắc khó hiểu khác. Năm 2001 tôi về thăm Việt Nam lần thứ hai. Lần này tôi ở Huế thăm bà chị ruột khá lâu. Một người cháu rễ tôi làm việc ở Ty Thể Thao Huế cho biết trong số học trò cũ Ban Xây Dựng của Đại học Huế trước 1975 có vài người đang giữ các chức vụ chuyên môn cấp thành phố ngỏ ý tổ chức một buổi gặp mặt để thăm thầy cũ. Không hiểu vì lý do gì buổi gặp mặt không tổ chức được, nhưng tôi vẫn nhớ hảo ý của những người học trò tôi không nhớ tên. Hồi đó, khoảng năm 1972-1974, mỗi năm tôi ra Huế dạy học mấy tuần lễ, đi và đến vội vàng nên không nhớ một ai.

Cuộc đời của tôi cứ chằng chịt như vậy với nghề dạy học dù không phải là một thầy giáo chuyên nghiệp trong bất cứ cái nghĩa nào, và có thể nói đời sống tôi sẽ khác đi nhiều nếu không có quãng đời dạy học đó.

Nhưng nếu vậy thì cái số ở đâu? Số tôi là số dạy học và đời sống tôi được đan lên đan xuống với một số học trò, nam cũng như nữ. Nhưng tôi vẫn không phải là giáo sư.

Tôi có cảm tưởng học trò của tôi chưa xem tôi là thầy của họ. Tôi chỉ là thầy giáo tài tử chứ không phải thầy giáo chính quy. Bằng chứng học sinh Nha Trang Khánh Hòa rất tích cực trong việc tổ chức ái hữu, họp hành hằng năm. Nhưng ít khi họ nhớ đến tôi, trong khi họ không quên những thầy cô xuất thân trường sư phạm như thầy Hoàng Thuyên, thầy Ngô Đức Diễm, cô Kim Thành, cô Diệu Trang … hoặc những thầy cô mới vào đời đã xung phong vào nghề dạy học như thầy Bùi  Ngoạn Lạc, cô Thanh Trí … Thiếu những thầy Thuyên, thầy Diễm, thầy Lạc, cô Kim Thành, Thanh Trí, Diệu Trang … hội của họ sẽ không còn là hội cựu học sinh Nha Trang, Khánh Hòa. Nhưng thiếu tôi thì chẳng sao, cái ông thầy hay mặt quân phục trắng, xuất hiện bất thường như hồn ma bóng quế. 

Viết những dòng chữ này tôi không trách các bạn học sinh Võ Tánh và trường Nữ Nha Trang đâu. Có vậy nó mới thành cái lá số tử vi của tôi là ghét của nào trời trao của đó, và đã chối bỏ thì dù phải làm cũng không đáng được cái vinh dự hoàn toàn của nghề dạy học cao quý và nhiều hy sinh.

“Bắt phong trần phải phong trần”

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

                                                                        Truyện Kiều - Nguyễn Du

Đó là lẽ cân bằng của trời đất!

Trần Văn Sơn

Sept. 27, 2005

BinhNam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

 

(*) Bài này viết năm 2005, khi đó tôi đã nhớ nhầm trong số học trò tôi ở trường Võ Tánh sau trở về dạy thay tôi có anh Nguyễn Đức           Minh. Thật ra anh Nguyễn Đức Minh học xong đệ nhị tại Võ Tánh thì hết lớp phải vào Sàigòn học đệ nhất. Đến khi các lớp đệ nhất           mở tôi mới được mời đến dạy giờ. Dòng ghi chú này để đính chính và cũng để xin lỗi anh Nguyễn Đức Minh (July 26, 2013)

 

 


Trần Văn Sơn

http://www.tranbinhnam.com