Về quê thăm Mẹ
Lời
giới thiệu: Năm 1988, ông bà Jim
& Jan Stevens người Mỹ nhận nuôi một cậu con trai 4 tháng tuổi qua dịch vụ
con nuôi quốc tế Holt Children’s Services. Em bé Lee Seung Yub, người Đại Hàn,
bố mẹ nuôi đặt tên là Matt – Matt Stevens . Năm nay, 25 tuổi Matt tham dự một cuộc hành trình về thăm quê
mẹ do công ty Holt tổ chức. Trong số 17 người tham dự, có người chỉ muốn đi du
lịch, có người muốn tìm hiểu thêm văn hóa của quê hương gốc, chỉ có 6 người –
trong đó có Matt - muốn trở về quê để thăm bố mẹ đẻ.
Câu chuyện “Về quê thăm Mẹ” do Matt Stevens viết và đăng trên tờ báo Los
Angeles Times ngày 30/8/2013 dưới nhan đề: “An adopted son returns”
Trần
Bình Nam phóng dịch
Tôi bước theo cô
nhân viên thông dịch của công ty Holt. Cô gõ nhẹ hai tiếng vào chiếc cửa gỗ
khép hờ. Một người phụ nữ Nam Hàn trung
niên, hơi gầy, khuôn mặt không được đầy đặn, tóc vén ra sau bằng
một chiếc kẹp hình con bướm hiện ra sau cánh cửa chưa mở hẳn.
Với giọng thật trầm, pha lẫn rụt rè
tôi nói “Annyeonghaseyo” lời chào buổi
sáng bằng tiếng Đại Hàn. Tôi cảm thấy âm thanh của ngôn ngữ nghe rất lạ tai, mặc
dù tôi đã học phát âm nhiều lần cho nhuần nhuyễn!
“Annyeonghasey …” Người phụ nữ chào đáp
nhưng phát chưa hết âm đã nghẹn ngào nấc lên. Mẹ tôi quàng hai tay ôm tôi vào
lòng, nói trong nước mắt, “Mẹ cảm thấy xót xa và thành thật xin lỗi”, cô nhân
viên của công ty dịch lại cho tôi.
Ngồi nghe Mẹ tôi
nói về sự dằn vặt và nỗi khổ tâm của bà trong 25 năm qua, từ ngày giao tôi cho
dịch vụ con nuôi, có lúc tôi không cầm được nước mắt và cùng khóc với bà.
“Mẹ không một phút
quên con,” Bà nói, “Mẹ nhớ con từng phút từng giây .”
Gần suốt thời gian
3 giờ rưỡi đồng hồ nói chuyện với Mẹ tôi không khóc, nhưng những phút đầu tiên tôi đã khóc vì cảm được nỗi đau
tận cùng của bà, và cũng khóc vì vui biết sự trở về của tôi đang làm bà vơi nỗi
khổ tâm.
Trong đơn xin tham
gia chương trình trở về quê Mẹ có 5 lựa chọn. Tôi đánh dấu sự lựa chọn cuối
cùng: “Thăm bố mẹ đẻ nếu có thể được”.
Ghi vậy thôi, nhưng tôi không quyết tìm cho được bố mẹ đẻ để thăm. Bố mẹ nuôi
tôi rất tế nhị. Khi tôi lớn lên bắt đầu hiểu biết chưa có lần nào bố mẹ nuôi
tôi nói xa gần về gốc gác của tôi. Tôi được nuôi ăn học đến nơi đến chốn, có việc
làm ổn định, sống trong không khí gia đình yêu thương và đùm bọc, và tôi không
thiếu bạn bè quý mến. Tôi biết tôi là một người may mắn.
Bố mẹ nuôi tôi ở
Los Angeles không xa khu phố Đại Hàn – Koreatown. Vào đại học tôi ghi học một lớp
nghiên cứu về người Mỹ gốc Á châu và tham gia Hội những nhà báo Mỹ gốc Á, tôi cảm
thấy có nhu cầu tìm biết thêm về quê hương của Mẹ đẻ, nơi tôi đã sống 4 tháng đầu
của cuộc đời.
Công ty làm dịch vụ
con nuôi của tôi hằng năm tổ chức một chuyến đi thăm Nam Hàn gọi là “Về Nguồn” - Happy Trail in Korea. Tôi ghi danh. Tháng 7/2013 tôi cùng 16 thanh
thiếu nữ khác gốc Nam Hàn tuổi từ 19 đến 29 con nuôi trong nhiều gia đình tại
nhiều nước trên thế giới lên đường đi Seoul. Hầu hết, trong đó có tôi, đi Nam
Hàn lần đầu. Sau 12 ngày du hành, chúng tôi trở thành thân thiết nhau. Chúng
tôi cùng dượt taekwondo, cùng hát karooke, và kể cho nhau nghe những mẫu
chuyện vui buồn đáng nhớ. Câu chuyện giữa 6 chúng tôi, những người gặp bố mẹ đẻ
ghi nhiều ấn tượng nhất.
Hai chị em người
Pháp, Camille và Marion, năm 4 và 6 tuổi cha của hai cô mang đến gởi cho văn
phòng dịch vụ con nuôi Holt
Children’s Services ở Seoul hẹn sẽ
trở lại, nhưng bỏ đi luôn. Marion năm nay 30 tuổi, nói chị còn nhớ phảng phất
hình thù ngôi nhà nơi cha gởi chị. Hôm nay vừa gặp lại cha, cha cho một vài tấm
hình hồi còn thơ ấu. Marion nói nhìn hình, chị không hình dung được đó là mình.
Camille thì nói cái đầu của chị hồi nhỏ
sao tròn như quả bóng đá và chị cố dấu tấm hình đi một cách vụng về. Camille
miêu tả buổi gặp cha đẻ như “bơi … bơi trong dòng nước ngược”.
Hôm đó cũng là ngày
tôi gặp Mẹ đẻ tôi. Khi trở về người bạn gái thân thiết nhất của tôi trong đoàn choàng tay ôm lấy tôi
và hỏi một cách lo lắng “Anh OK chứ ?”
**
Sau khi ôm choàng lấy
tôi ngoài cửa, Mẹ tôi và tôi vào nhà ngồi đối diện nhau nơi một chiếc bàn nhỏ
hình bầu dục. Vách tường lót giấy màu xanh lục, tô điểm bằng những con chim nhỏ
bay bay tìm chỗ đậu trên những cành trúc gió đu đưa. Căn phòng trông giống như
một nơi giữ trẻ.
Trong khi nói chuyện
Mẹ tôi xích lần lại gần tôi. Bà vuốt lên xuống cánh tay tôi như thể xem có phải
là “da thịt” không. Bà úp hai bàn tay bà
vào bàn tay tôi như không muốn rời ra trong suốt giờ đầu nói chuyện với tôi. Bà
nói bà tên là Lee Jung-son. Tôi xưng tên tôi là Matt Stevens. Trong chuyến đi
này tôi định nếu gặp được Mẹ tôi sẽ nói lời “cám ơn” bà đã sinh ra tôi mục đích
để làm yên lòng một người Mẹ đã bỏ con. Thế thôi, và nghĩ sẽ không còn vướng bận
gì.
Tôi
đã nhầm. Cuộc gặp gỡ đã có một tác động sâu sắc đến tâm hồn Mẹ tôi và tôi. Cuộc
nói chuyện dù qua phiên dịch vì ngôn ngữ bất đồng cho tôi thấy hôm nay là một
ngày trọng đại của Mẹ tôi. Sau này Mẹ tôi nói với tôi sau cuộc trở về của tôi,
bà hoàn toàn thay đổi. Mỗi ngày bà cảm thấy đời sống bà có ý nghĩa, ngọt ngào
và hạnh phúc hơn.
Nhìn vào tấm hình
ba bố con Jim, Jan và tôi dưới tấm kiếng lót bàn tôi nói tôi cám ơn Mẹ đã hy
sinh và chịu đau khổ “mất con” vì tương lai của tôi. Nghe đến đó Mẹ tôi khóc sướt
mướt. Bà thổn thức : “Mẹ không bao giờ tưởng tưởng rằng con sẽ tìm về thăm Mẹ,
con còn nhận Mẹ là mẹ đẻ của con.”
Hồ sơ con nuôi của
tôi ghi rằng, lúc còn là một thiếu nữ 16 tuổi Mẹ tôi yêu một thanh niên, và có
thai với ông ấy. Có thai được 5 tháng ông thú thật với Mẹ tôi ông đã có gia
đình. Trong xã hội Á châu, một người con gái trẻ tuổi khó nuôi dưỡng và giáo dục
một đứa con ngoại hôn. Nhưng thay vì phá thai, Mẹ tôi đã chịu đựng búa rìu dư
luận sinh tôi ra và giao cho một công ty làm dịch vụ con nuôi. Hồ sơ ghi một
cách đơn giản, “vì nghịch cảnh” mẹ tôi phải cho
tôi. Qua hồ sơ tôi được biết tôi có 3 anh chị em, hai cùng cha, và một cùng
mẹ.
Tôi hỏi thăm về cha
tôi và các em thì Mẹ tôi tỏ ra đau khổ như ai giở lại cái quá khứ “tội lỗi” của mình . Cô
Esther Kim, người thông dịch của công ty Holt nói với tôi: “Tôi đã hỏi bà nhiều
lần, nhưng lần nào bà cũng tìm cách trì hoãn” và cô tiếp, “trái lại, Mẹ anh cứ
hỏi hoài, anh có bao giờ tỏ ý trách bà không?”
Nam Hàn là một xã hội
Khổng giáo, người đàn bà không chồng có con bị xã hội khinh thường. Ít gia đình
nuôi con nuôi, ngay cả những cặp vợ chồng không con.
Từ khi chiến tranh
Nam Bắc Hàn chấm dứt trong thập niên 1950 đến nay có 160.000 trẻ em Nam Hàn trở
thành con nuôi tại nhiều nước trên thế giới, nhiều nhất là Hoa Kỳ. Phong trào
nuôi con nuôi Nam Hàn mạnh nhất vào giữa thập niên 1980, vài năm trước khi tôi
ra đời. Hiện nay, kinh tế Nam Hàn sung mãn, mỗi năm người Mỹ chỉ nuôi chừng vài
trăm con nuôi từ Nam Hàn.
Truyền hình Nam Hàn
thường cho chiếu những phóng sự con nuôi ở nước ngoài về thăm bố mẹ đẻ. Mẹ tôi
nói với tôi, mỗi lần xem một phóng sự như vậy bà tự hỏi, “có khi nào thằng Yub
về thăm mình không?”
Mẹ tôi buồn với quá
khứ, trong bao năm qua nhớ tưởng tôi hằng phút hằng giây. Trái lại, tôi như kẻ
vô tình. Tôi có một đời sống hạnh phúc với bố mẹ nuôi, sống ổn định trong xã hội,
mãi đến giờ này tôi mới nghĩ đến Mẹ.
Hôm nay, ngồi nghe
lại cuốn băng ghi cuộc nói chuyện với Mẹ,
tôi khóc ngất. Tôi nói tiếng Anh chậm rãi với Mẹ đẻ mình để được phiên dịch
cho bà nghe như nói với một đứa trẻ. Giữa những phút im lặng tôi chen vào lời
khuyến khích mẹ tôi và nhắc đi nhắc lại tôi không hề oán hận bà.
Mẹ tôi tiễn tôi ra
phi trường khi tôi trở về Hoa Kỳ. Bà ghi số điện thoại của tôi. Tôi nói với bà
điện thoại qua lại chắc không tiện vì phải sắp xếp người phiên dịch. Bà hỏi tôi
có trở lại thăm bà không? Tôi nói tôi sẽ, nhưng không bảo đảm vì đường sá xa
xôi và cũng lắm nhiêu khê. Tôi hứa sẽ viết thư thăm bà thường xuyên qua công ty
dịch vụ Holt .
Người phụ nữ đã
sinh tôi ra đời không muốn rời tôi. Cử chỉ của bà lúc nào cũng như muốn ôm tôi
vào lòng, cận kề da thịt tôi. Bà nói dây giày của tôi không chặt và kiếm cớ cúi
xuống cột lại cho tôi.
Khi xuống xe bước
vào khách sạn, một cơn mưa chợt đổ xuống Mẹ tôi vội vàng bật chiếc dù che cho
tôi, đột ngột kéo tôi vào lòng nói: “Mẹ sẽ không để một giọt nước mưa nào đổ xuống
đầu con.”
Trong lobby khi tôi sắp nói lời từ biệt, Mẹ
tôi nhìn tôi qua khóe mắt, cầm chặt tay tôi, rươm rướm nước mắt.
Mẹ tôi đặt một cái
hôn nồng cháy vào lòng tay tôi, mếu máo: “Con hãy sống sung sướng và giữ gìn sức
khỏe. Mẹ thương con lắm.”
Tôi không dám nhìn
thẳng vào đôi mắt bà, nói: “Con cũng thương Mẹ vô cùng.”
Trần
Bình Nam phóng dịch
**Cảm tác về Mẹ của một độc
giả**
trang nhà www.tranbinhnam.com
Nhớ mẹ,
Biết mẹ không còn sao vấn vương,
Con thơ ngày ấy đứng bên đường,
Xa xa nắng nhạt loang tà áo,
Chiếc nón nghiêng nghiêng dáng mẹ thương..
**
Biết mẹ không còn sao vẫn nghe,
Nghe như tiếng mẹ nói bên thềm,
Mưa Xuân nắng Hạ vui cùng mẹ,
Thoang thoảng đong đưa tiếng mẹ êm..
**
Biết mẹ không còn sao vẫn mong,
Mong tìm hơi ấm sưởi chiều Đông,
Mong đêm trăng sáng dìu chân mẹ,
Dạo bước vườn xưa dưới trăng trong..
**
Biết mẹ không còn sao vẫn mơ,
Mơ chiều thu vắng bóng ai chờ,
Chờ bao ngày tháng con về lại,
Bên mẹ con cười như trẻ thơ...
qnh.